Tông thư Mane Nobiscum Domine

TÔNG THƯ MANE NOBISCUM DOMINE
(LẠY CHÚA, XIN Ở LẠI VỚI CHÚNG CON)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
GỬI CHO CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN
NHÂN DỊP NĂM THÁNH THỂ

DẪN NHẬP
1. “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều” (Lc 24,29). Đó là lời mời tha thiết của hai người môn đệ đang trên đường đi Emmaus vào chiều ngày lễ Phục sinh. Hai ông đã nhất tâm mời cho kỳ được Vị Khách đã nhập đoàn cùng đi với hai ông suốt con đường dài. Tâm trí đầy ắp ưu phiền, các ông bấy giờ chẳng mường tượng được Vị Khách Lạ kia lại chính là Thầy của mình, nay đã phục sinh. Thế nhưng, các ông đã cảm nghiệm “một nỗi khao khát cháy bỏng” và sâu xa (x. ibid., 32) lúc Người nói chuyện với các ông và “giải thích cho các ông hiểu Sách Thánh. Ánh sáng của Lời đã khai sáng những tâm hồn chai cứng và “đã mở mắt cho các ông” (x. ibid., 31). Giữa cảnh u ám chập choạng của ngày sắp tàn và sự tối tăm đang xâm chiếm lòng trí các ông, Vị Khách kia đã dọi một tia sáng, dấy lên niềm hy vọng và mở lòng cho các ông khát khao được ánh sáng trọn vẹn soi chiếu. Các ông đã khẩn khoản mời: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi”. Và Vị Khách đã nhận lời. Chẳng mấy chốc, khuôn mặt Đức Giêsu đã biến đi, nhưng Thầy vẫn còn “ở lại” với họ, ẩn khuất trong sự kiện “bẻ bánh”. Chính sự kiện này đã khiến mắt các ông đã mở ra và nhận biết Người.
2. Bức ảnh các môn đệ đi Emmaus quả là một chỉ dẫn thích hợp cho suốt một Năm Hội Thánh dành riêng để đặc biệt chú tâm sống mầu nhiệm Thánh Thể. Trên một hành trình dày đặc những nghi ngại và âu lo, thậm chí cả những thất vọng não nề nữa, Vị Thượng Khách kia vẫn đang tiếp tục làm người bạn đường dẫn dắt chúng ta, cùng đọc Sách Thánh và giải thích cho ta hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi cuộc gặp gỡ trở thành toàn diện, tiếp theo sau ánh sáng của Lời là ánh sáng chiếu giãi từ “Bánh ban sự sống”, nhờ đó Đức Kitô thực hiện trọn vẹn lời hứa của Người là ở với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
3. Việc “bẻ bánh” – tên gọi Thánh Thể từ thời khai nguyên – xưa nay vẫn là trung tâm của đời sống Hội Thánh. Nhờ việc bẻ bánh, Đức Kitô làm cho mầu nhiệm thương khó và sự phục sinh của Người được hiện diện suốt dòng thời gian. Khi cử hành việc bẻ bánh, chính bản thân Người được đón nhận như là “bánh hằng sống từ trời xuống” (Ga 6,51) và, cùng với Người, bảo chứng sự sống vĩnh cửu được ban tặng cho chúng ta và nhờ đó ta được nếm trước bữa tiệc vĩnh cửu của Giêrusalem thiên quốc. Tiếp nối giáo huấn của các Giáo phụ, các Công đồng đại kết và cả các vị Tiền nhiệm của tôi, nhiều lần và mới đây trong thông điệp Ecclesia de Eucharistia, tôi đã mời gọi Hội Thánh cùng suy tôn Thánh Thể. Do đó, trong thư này, tôi không có ý nhắc lại giáo huấn ấy nữa, bởi tôi tin rằng thế nào giáo huấn ấy cũng sẽ được nghiên cứu và tìm hiểu một cách sâu rộng hơn. Tuy nhiên, tôi nghĩ việc xác định mục đích của tông thư này là mời gọi toàn thể dân Chúa dành trọn một Năm để suy tôn bí tích cực thánh là một việc làm rất hữu ích.
4. Như ta biết, Năm Thánh Thể sẽ diễn ra từ tháng mười năm 2004 đến tháng mười năm 2005. Ý tưởng về việc cử hành năm Thánh Thể này đến với tôi từ hai biến cố sẽ đánh dấu đầu năm và cuối năm này: Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế diễn ra từ mồng 10 đến 17 tháng mười năm 2004 ở Guadalajara (Mêhicô), và Thượng hội đồng giám mục thường kỳ sẽ được tổ chức tại Vaticanô từ mồng 02 đến 29 tháng mười năm 2005, với đề tài “Thánh Thể: nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống và sứ vụ Hội Thánh”. Còn một nhận định khác khiến tôi đưa ra đề nghị này: Ngày Quốc tế Giới trẻ cũng sẽ diễn ra sang năm ở Cologne từ ngày 16 đến 21 tháng tám năm 2005. Tôi mong ước các bạn trẻ cùng quy tụ chung quanh Thánh Thể vì đó chính là nguồn sống dưỡng nuôi đức tin và lòng hăng say của các bạn. Thực ra, sáng kiến dành một năm để suy tôn Thánh Thể như vậy thỉnh thoảng vẫn loé lên trong tâm trí tôi, đó là sự tiến triển tất yếu của thúc bách mục vụ mà tôi đã có ý khơi lên trong Hội Thánh, đặc biệt từ những năm chuẩn bị cho Năm toàn xá và cả những năm sau đó nữa.
5. Trong tông thư này, tôi xin nhấn mạnh đến tính liên tục của sự tiến triển tất yếu này, hầu giúp mọi người gặt hái được ý nghĩa thiêng liêng của sự tiến triển ấy. Còn về việc thực hiện cụ thể Năm Thánh Thể, tôi trông vào thái độ quan tâm lo lắng của chính các vị mục tử trong các Hội Thánh địa phương, lòng sùng mộ của các vị đối với Bí tích cực trọng này sẽ khơi lên được những việc làm cụ thể. Ngoài ra, chắc chắn những người Anh em Giám mục của tôi sẽ hiểu rằng sáng kiến này, tiếp ngay sau khi Năm Kinh Mân côi vừa kết thúc, có ý dẫn đến một bình diện tâm linh sâu sắc hơn mà không làm xáo trộn các chương trình mục vụ của các Hội Thánh địa phương. Đúng hơn, sáng kiến này có thể soi sáng cho các chương trình ấy, và có thể nói, định hướng các chương trình ấy đi vào Mầu Nhiệm là nguồn mạch dưỡng nuôi đời sống thiêng liêng của các tín hữu cũng như của mỗi sáng kiến trong Hội Thánh địa phương. Vì thế, tôi không yêu cầu các Hội Thánh địa phương tạm ngưng các chương trình mục vụ đang được thực hiện, nhưng xin nhấn mạnh đến chiều kích Thánh Thể trong các chương trình ấy, vì đấy là chiều kích đặc nét của toàn thể đời sống Kitô hữu. Còn phần tôi, qua tông thư này, tôi xin nêu lên một số hướng dẫn căn bản, và tôi xác tín rằng Dân Thiên Chúa ở mọi cấp độ sẽ mau mắn đón nhận đề nghị của tôi với nhiệt tình và với lòng yêu mến nồng nhiệt.
I. TIẾP BƯỚC CÔNG ĐỒNG VÀ NĂM TOÀN XÁ
Cái nhìn hướng về Đức Kitô
6. Mười năm trước, qua Tông thư Tertio millennio adveniente [Ngàn năm thứ ba đang đến] (10/10/1994), tôi đã hân hoan đề ra cho Hội Thánh một chương trình chuẩn bị mừng Năm đại Toàn xá 2000. Bấy giờ, tôi thấy chính cơ hội đó trở nên như một ân huệ to lớn. Dĩ nhiên tôi không coi đó như là một biến cố xét về niên đại mà thôi, cho dù có nêu lên nhiều ý nghĩa, lại có thể tự nó kéo theo những thay đổi quan trọng. Nào ngờ Thiên niên kỷ mới lại bắt đầu bằng những sự kiện đầy bi kịch trong quá khứ và còn kéo theo những khía cạnh vô cùng tệ hại. Dù đã có những yếu tố khởi sắc, nhưng bộ mặt thế giới vẫn còn in đậm những vết nhăn của bạo lực và vấy máu, khiến chúng ta lúc nào cũng canh cánh một nỗi lo âu phiền muộn. Dầu vậy, khi mời Hội Thánh cử hành Năm toàn xá mừng hai ngàn năm Mầu nhiệm Nhập thể, tôi bấy giờ xác tín sâu xa – và đến hôm nay cũng vậy, hơn bao giờ hết – rằng việc cử hành Mầu nhiệm Nhập thể “về lâu về dài” sẽ đem lại ích lợi cho toàn thể nhân loại.
Thật vậy, Đức Kitô ngự giữa trung tâm không phải chỉ lịch sử của Hội Thánh mà thôi, nhưng còn giữa lịch sử của nhân loại nữa. Trong Người, vạn vật được quy tụ lại (x. Ep 1,10 ; Cl 1,15-20). Làm sao có thể quên được đà tiến nhờ đó Công đồng Vaticanô II, xin dẫn lời của Đức Phaolô VI, tuyên xưng rằng Đức Kitô là “cùng đích của lịch sử nhân loại, là điểm hội tụ những ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung tâm của nhân loại, là niềm vui của mọi tâm hồn và là sự viên mãn của những gì lòng người khát vọng”[2]. Giáo huấn của Công đồng giúp chúng ta am tường bản chất của Hội Thánh một cách sâu sắc, gợi mở cho tín hữu một cảm thức trong sáng không chỉ về các mầu nhiệm đức tin mà cả những thực tại trần gian, khi họ nhìn đời bằng ánh mắt của Đức Kitô. Thực vậy, chính trong thân phận Ngôi Lời nhập thể, cả mầu nhiệm Thiên Chúa lẫn mầu nhiệm con người đều được khai sáng[3]. Nơi Người, nhân loại tìm thấy ơn cứu chuộc và sự thành tựu viên mãn.
7. Trong tông huấn Redemptor hominis [Đấng cứu độ nhân loại], lúc khởi đầu trách vụ Giáo hoàng, tôi đã triển khai chủ đề này, và tôi vẫn thường xuyên nhắc lại chủ đề ấy vào nhiều dịp khác nhau. Năm toàn xá là thời điểm thuận tiện để mời gọi các tín hữu một lần nữa hãy chú tâm chiêm ngắm chân lý nền tảng này. Việc chuẩn bị biến cố trọng đại đó hoàn toàn quy hướng về Chúa Ba Ngôi và tập trung vào Chúa Kitô. Dĩ nhiên, trong kế hoạch tổng quát như thế, Thánh Thể không thể bị bỏ quên. Nếu như hôm nay chúng ta chuẩn bị mừng Năm Thánh Thể, thì tôi xin nhắc lại rằng trong tông thư Tertio millennio adveniente [Ngàn năm thứ ba đang đến], tôi từng viết: “Năm 2000 sẽ là một năm Thánh Thể: trong bí tích Thánh Thể, Đấng Cứu thế, đã nhập thể trong lòng Đức Mẹ Maria hai mươi thế kỷ trước, vẫn đang tiếp tục dâng hiến bản thân Người để làm mạch suối tuôn chảy sự sống của Thiên Chúa cho nhân loại”[4]. Hội nghị Thánh Thể Quốc tế năm ấy được tổ chức tại Rôma đã góp phần định hướng tập trung vào chiều kích Thánh Thể nhân dịp cử hành Năm đại toàn xá. Tưởng cũng đáng nhắc lại rằng, để chuẩn bị đầy đủ cho Năm toàn xá, trong tông thư Dies Domini [Ngày Chúa nhật], tôi đã xin các tín hữu suy niệm đề tài “Ngày Chúa Nhật” như là ngày của Chúa phục sinh và là ngày đặc biệt của Hội Thánh. Khi ấy, tôi đã mời mọi tín hữu tái khám phá rằng chính việc cử hành Thánh Thể mới là trọng tâm của Ngày Chúa Nhật[5].
Cùng với Đức Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô
8. Những thành quả Năm toàn xá phần nào đã được tóm lược trong tông thư Novo millennio ineunte [Bước vào thiên niên kỷ mới]. Trong văn kiện đại cương này, tôi đã gợi ý rằng cuộc dấn thân mục vụ nghiêm túc tiên vàn phải được đặt nền trên việc chiêm niệm dung nhan Đức Kitô, xét vì đó là đường lối sư phạm của Hội Thánh nhằm vươn tới “đỉnh cao” của bậc thánh đức, và tiếp đến, cuộc dấn thân mục vụ ấy phải được thể nghiệm bằng một đời sống đam mê cầu nguyện[6]. Như vậy, làm sao có thể hoàn thành cuộc dấn thân mục vụ được nếu không hết lòng gắn bó với việc cử hành phụng vụ và đặc biệt là việc tiếp nhận sức sống Thánh Thể? Cho nên tôi đã viết: “Trong suốt thế kỷ hai mươi, nhất là từ sau Công đồng, đã có một sự phát triển sâu rộng về cách thức cộng đoàn Kitô hữu cử hành các bí tích, nhất là Thánh Thể. Nhất định phải tiếp tục triển khai theo chiều hướng này, và đặc biệt nhấn mạnh việc cử hành Thánh Thể ngày Chúa Nhật cũng như chính ngày Chúa Nhật, được cảm nghiệm như một ngày đặc biệt của đức tin, ngày của Chúa phục sinh và của ơn huệ Thánh Thần, một ngày lễ Vượt qua hằng tuần đích thực”[7]. Trong bối cảnh thao luyện đời sống cầu nguyện, tôi cũng đã đề nghị cử hành Các giờ kinh phụng vụ, nhờ kinh nguyện này Hội Thánh thánh hiến những giờ khắc khác nhau trong từng ngày và nhịp độ thời gian luân chuyển theo những điểm nhấn riêng trong từng năm phụng vụ.
9. Tiếp theo đó, với việc công bố Năm kinh Mân côi và phổ biến tông thư Rosarium Virginis Mariae, tôi đã nhắc lại chủ đề chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Kitô khởi đi từ cái nhìn của Đức Maria, bằng cách một lần nữa khuyến khích đọc kinh Mân côi. Thật vậy, kinh nguyện truyền thống này đã được Huấn quyền nhắc nhở nhiều và được Dân Thiên Chúa rất mến chuộng, có một hương vị Kinh Thánh và Tin Mừng rõ rệt, tập trung chính yếu vào Danh hiệu và Dung nhan của Đức Giêsu, chăm chú chiêm niệm các mầu nhiệm bằng cách đọc đi đọc lại Kinh kính mừng. Cứ nhịp nhàng đọc đi đọc lại như thế, đó chính là một kiểu sư phạm vun trồng lòng mến, nhằm hun đúc tâm hồn mọi người bằng chính lòng mến Đức Maria đã cưu mang để dưỡng dục Con của Mẹ. Chính vì thế, khi khai triển thêm truyền thống ngàn đời của Hội Thánh bằng cách thêm vào các mầu nhiệm sự sáng, tôi đã cố gắng làm cho hình thức chiêm niệm ưu việt này càng đúng với tên gọi là “bản tóm lược Tin Mừng”[8] hơn. Và như vậy, lẽ nào không đặt Thánh Thể ở đỉnh cao của các mầu nhiệm sự sáng cho được?
Từ Năm kinh Mân côi đến Năm Thánh Thể
10. Đúng vào giữa Năm kinh Mân côi, tôi đã công bố thông điệp Ecclesia de Eucharistia, có ý đề cao mầu nhiệm Thánh Thể trong tương quan không thể tách rời và sống động với Hội Thánh. Tôi đã thúc đẩy các tín hữu cử hành Hiến tế Thánh Thể với lòng sốt sắng xứng hợp với mầu nhiệm ấy, dâng cho Đức Giêsu đang hiện diện trong Thánh Thể, bất kể trong hay ngoài Thánh lễ, một tâm tình thờ phượng xứng đáng với bí tích rất cực trọng này. Nhất là tôi muốn gợi lên một lần nữa nhu cầu cần phải có một linh đạo Thánh Thể khi đề cao Đức Maria, “người phụ nữ của Thánh Thể”[9], làm gương mẫu.
Như vậy, Năm Thánh Thể đã được dệt trên một nền phong phú của những năm tháng đã trôi qua, trong khi vẫn luôn luôn tập trung vào chủ đề Đức Kitô và việc chiêm ngưỡng Dung nhan của Người. Theo một nghĩa nào đó, năm này như là một năm tổng hợp, nhắm tới đỉnh cao của một hành trình tiến bước. Hẳn là chúng ta có thể liệt kê ra nhiều cách để sống sung mãn năm này. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn nêu lên một vài suy nghĩ có thể giúp mọi tín hữu cảm nghiệm được bí tích này cách sâu xa hơn và ích lợi hơn mà thôi.
II. THÁNH THỂ LÀ MẦU NHIỆM ÁNH SÁNG
“Người giải thích cho các ông những gì liên quan đến Người
trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27)
11. Câu chuyện Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho hai môn đệ đi Emmaus giúp chúng ta tập trung vào một khía cạnh tiêu biểu của mầu nhiệm Thánh Thể, khía cạnh luôn luôn phải có trong lòng sùng kính của Dân Thiên Chúa: Thánh Thể, mầu nhiệm ánh sáng! Nói như thế nghĩa là gì và cụm từ đó hàm ý gì đối với linh đạo và đối với đời sống Kitô hữu?
Đức Giêsu cho thấy chính Người là “ánh sáng của thế giới” (Ga 8,12), và phẩm cách đó hiện rõ trong những khoảnh khắc cuộc sống dương thế của Người, chẳng hạn trong cuộc Biến hình và cuộc Phục sinh. Trong những khoảnh khắc ấy, vinh quang Thiên Chúa của Người toả rạng. Nhưng trong Thánh Thể, vinh quang của Đức Kitô được che giấu. Bí tích Thánh Thể là “mầu nhiệm đức tin” tuyệt đỉnh. Như thế, chính trong mầu nhiệm ẩn giấu hoàn toàn, Đức Kitô lại trở thành mầu nhiệm ánh sáng, nhờ đó người tín hữu được dẫn đưa vào chiều sâu thăm thẳm của sự sống Thiên Chúa. Nhờ một trực giác bén nhạy, trong hoạ phẩm về Chúa Ba Ngôi, danh họa Rublev rõ ràng đặt Thánh Thể vào giữa trung tâm đời sống của Chúa Ba Ngôi.
12. Thánh Thể là ánh sáng tiên vàn bởi vì, trong mỗi Thánh lễ, phụng vụ Lời Thiên Chúa đi trước phụng vụ Thánh Thể, nhưng cả hai vẫn là một thể thống nhất gồm có hai bàn tiệc, một bàn là Lời và một bàn là Bánh. Sự liên tục này hiện rõ ở diễn từ Thánh Thể theo Tin Mừng thánh Gioan, trong đó lời loan báo của Đức Giêsu đi từ chỗ trình bày mầu nhiệm bản tính của Người đến chỗ toả ra chiều kích Thánh Thể: “Thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (Ga 6,55). Như ta đã biết, lời công bố trên đây đã khiến phần lớn thính giả đều thất vọng, khiến ông Phêrô phải đứng ra tuyên xưng niềm của các Tông đồ khác và của Hội Thánh ở mọi thời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Trong câu chuyện các môn đệ đi Emmaus, chính Đức Kitô can thiệp vào, “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ”, để cho thấy rằng “tất cả Sách Thánh” đều dẫn tới mầu nhiệm ngôi vị của Người (x. Lc 24,27). Những lời của Người làm cho tâm hồn các môn đệ “bừng cháy”, kéo các ông ra khỏi bóng tối của buồn phiền và thất vọng, đồng thời khơi lên từ đáy lòng các ông ước muốn được ở lại với Người: “Xin ở lại với chúng con, lạy Chúa” (Lc 24,29).
13. Trong Hiến chế Sacrosanctum Concilium, các Nghị phụ Công đồng Vaticanô II đã muốn “Bàn tiệc Lời” ban tặng thật dồi dào cho các tín hữu những kho báu của Sách Thánh[10]. Chính vì thế, các ngài đã cho phép các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ phải được công bố bằng ngôn ngữ mà mọi người có thể hiểu được. Bởi chưng, chính Đức Kitô nói khi Sách Thánh được công bố trong Hội thánh[11]. Đồng thời, các ngài cũng nhắc nhở vị chủ toạ rằng bài giảng, xét vì là thành phần toàn vẹn của phụng vụ, phải nhằm mục đích giải thích Lời Thiên Chúa và hiện tại hoá lời ấy cho đời sống Kitô hữu[12]. Bốn mươi năm sau Công đồng, Năm Thánh Thể hẳn sẽ là dịp quan trọng để các cộng đoàn Kitô hữu lượng định xem trong lãnh vực này mình đã tiến bộ tới đâu. Thật ra, các đoạn văn Kinh Thánh dẫu được công bố bằng ngôn ngữ bản địa vẫn chưa thoả đáng, nếu như việc công bố ấy không được thực hiện một cách nghiêm cẩn, có chuẩn bị chu đáo, được chăm chú lắng nghe, thầm lặng suy gẫm, những yếu tố này rất cần thiết để Lời Thiên Chúa tác động vào cuộc sống và soi rọi cuộc đời thính giả.
“Các ông đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh” (Lc 24,35)
14. Trên đường đi Emmaus, nhờ lắng nghe Lời Chúa, hai môn đệ được chuẩn bị sẵn sàng, vừa đến lúc đồng bàn họ tức khắc nhận ra Người nhờ một cử điệu rất đơn giản đó là “bẻ bánh”, sự kiện này thật ý nghĩa biết chừng nào. Quả vậy, khi tâm trí được khai sáng và tâm hồn được hun đúc bừng cháy, các dấu chỉ bắt đầu “lên tiếng”. Thánh Thể tỏ mình trong khung cảnh các dấu chỉ sống động, các dấu chỉ ấy chuyển tải một thông điệp sung túc và minh bạch. Nhờ các dấu chỉ như thế mà, một cách nào đó, mầu nhiệm mở toang trước mắt người tín hữu.
Như tôi đã nhấn mạnh trong thông điệp Ecclesia de Eucharistia, điều quan trọng là đừng coi thường bất cứ một chiều kích nào của Bí tích này. Thật vậy, chúng ta thường bị cám dỗ giản lược Thánh Thể thành những chiều kích cá biệt của mình, trong khi đáng lẽ chính chúng ta mới là những người cần phải mở toang con người của mình để vươn tới những chiều kích của Mầu nhiệm này. Quả thực, “Thánh Thể là một hồng ân kỳ vĩ đến mức khó có thể chịu đựng nổi bất cứ lối diễn đạt hàm hồ và thái độ khinh suất nào của chúng ta”[13].
15. Chiều kích hiển nhiên nhất của Thánh Thể chắc chắn phải là chiều kích bữa tiệc. Thánh Thể ra đời vào tối ngày thứ năm Tuần Thánh, trong khung cảnh bữa tiệc Vượt qua. Vì thế, ý nghĩa đồng bàn là thành phần trong chính cấu trúc của Thánh Thể: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn … Rồi Người cầm lấy chén … trao cho các ông mà nói: “Tất cả hãy uống chung chén này …” (Mt 26,26.27). Theo đó, ý nghĩa bàn tiệc diễn tả xác thực mối tương quan bằng hữu Thiên Chúa muốn thiết lập với chúng ta, và rồi, chính chúng ta cũng phải dựng xây mối giao hảo ấy với tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta đừng quên rằng ý nghĩa sâu xa và then chốt của bàn tiệc Thánh Thể lại chính là hiến tế[14]. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Kitô lại làm cho hiến tế đã thành toàn chỉ một lần cho mãi mãi trên đồi Gôngôtha xưa thành hiện thực giữa chúng ta. Tuy hiện diện trong Thánh Thể như là Đấng Phục sinh, Người vẫn mang những dấu tích cuộc thương khó. Do vậy, mỗi Thánh lễ là một “cuộc tưởng niệm”, như phụng vụ nhắc cho chúng ta nhớ trong lời tung hô sau truyền phép: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con công bố sự kiện Chúa đã chết, chúng con hát mừng biến cố Chúa phục sinh …”. Đồng thời, đang khi hiện tại hóa những gì đã diễn ra trong quá khứ, Thánh Thể lại câu thúc chúng ta hướng về tương lai tức là việc Đức Kitô trở lại lần sau hết, lúc thời gian viên mãn. Khía cạnh “cánh chung” này làm cho Bí tích Thánh Thể trở thành một biến cố dẫn chúng ta tiến bước và thổi vào hành trình Kitô giáo một làn gió hy vọng.
“Thầy ở với anh em mọi ngày” (Mt 28,20)
16. Nhưng những chiều kích của Thánh Thể đó được đan kết với nhau trong một khía cạnh trổi vượt hơn bất kỳ một khía cạnh nào khác. Khía cạnh này là một thử thách cam go đối với niềm tin chúng ta: mầu nhiệm của sự hiện diện “thật”. Cùng với toàn thể truyền thống Hội Thánh, chúng ta tin rằng Đức Giêsu đang hiện diện thật trong phép Thánh Thể dưới hình bánh và hình rượu. Theo cách giải thích của Đức giáo hoàng Phaolô VI, sự hiện diện này tuy rất “thật”, nhưng không phải là sự hiện diện duy nhất đến mức loại trừ tất cả các hình thức hiện diện khác, mà là sự hiện diện tuyệt đẳng kỳ vĩ[15], bởi do sự hiện diện này, Đức Kitô hoàn toàn hiện diện theo bản thể trong thực tại là mình và máu Người[16]. Vì thế, trước Thánh Thể, đức tin đòi chúng ta phải vững lòng ý thức rằng chúng ta đang ở trước chính Đức Kitô. Chính vì Người hiện diện thật trong Thánh Thể mà tất cả những chiều kích khác của Thánh Thể như bữa tiệc, lễ tưởng niệm cuộc Vượt qua, tham dự trước vào tiệc cánh chung, đều mang nghĩa tuyệt đẳng, vượt xa những ý nghĩa biểu tượng thuần tuý. Thánh Thể là mầu nhiệm của sự hiện diện, nhờ đó lời Đức Giêsu hứa ở với chúng ta cho đến tận thế được thể nghiệm.
Cử hành, thờ lạy, chiêm ngưỡng
17. Thánh Thể là bí tích cực trọng! Mầu nhiệm này trước hết phải được cử hành cách xứng hợp. Thánh lễ phải giữ vị trí trung tâm đời sống Kitô hữu và trong mỗi cộng đoàn, chúng ta gắng sức tối đa để Thánh lễ được cử hành một cách xứng đáng, tuân thủ những quy tắc đã ấn định, mọi thành viên trong cộng đoàn cùng cử hành, các thừa tác viên khác nhau hãy thi hành những phận vụ mà mình đã được ủy thác, và ý tứ chọn lọc những nhạc phẩm đã được liệt vào danh mục thánh nhạc, phù hợp với bầu khí “linh thánh”. Suốt Năm Thánh Thể này, tại mỗi cộng đoàn giáo xứ, có lẽ việc làm cụ thể là học hỏi sâu xa Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma. Cuối cùng, con đường ưu việt để đi vào mầu nhiệm cứu độ vẫn phải là kiên tâm bước theo diễn tiến của Năm phụng vụ một cách trung tín, bởi mầu nhiệm cứu độ ấy đã trở thành hiện tại qua các dấu chỉ “thánh thiêng”. Ước mong các vị Mục tử hãy nỗ lực khai triển một huấn giáo “có tính cách thần bí” vốn rất được các Giáo phụ quý chuộng, bởi huấn giáo này làm sáng tỏ ý nghĩa những cử điệu và lời xướng trong Phụng vụ, giúp các tín hữu vượt qua các dấu chỉ để vươn tới mầu nhiệm và càng ngày họ càng làm cho trọn cuộc đời mình bén rễ sâu vào trong mầu nhiệm này.
18. Một yêu cầu đặc biệt thích hợp, cả trong việc cử hành Thánh lễ lẫn trong việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ, đó là cần vun trồng một ý thức sống động về sự hiện diện đích thực của Đức Kitô, thể nghiệm ý thức ấy bằng lời ăn tiếng nói, phong cách đi đứng, và ý tứ trong mọi hành vi. Về điểm này, các quy tắc phụng vụ nhắc cho chúng ta nhớ – và chính tôi mới đây cũng đã nhắc lại[17] – là cần ý thức tầm quan trọng những lúc phải thinh lặng trong khi cử hành thánh lễ cũng như trong những dịp chầu Thánh Thể. Tóm lại, các thừa tác viên cũng như các tín hữu cần phải tỏ ra hết lòng kính trọng đối với Thánh Thể[18]. Sự hiện diện của Đức Giêsu trong nhà tạm phải nên như một thứ nam châm thu hút đông đảo càng ngày càng nhiều những tâm hồn ngưỡng mộ Người, sẵn lòng kiên nhẫn chờ đợi nghe tiếng Người và thậm chí nghe thấy cả nhịp đập trái tim Người nữa. “Hãy nếm thử và hãy nhìn xem: Chúa tốt lành biết dường nào” (Tv 33 [34],9).
Trong Năm này, ước chi việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ là một mối quan tâm đặc biệt của các cộng đoàn giáo xứ và các cộng đoàn tu trì! Chúng ta hãy ở lại lâu giờ, phủ phục trước Đức Giêsu đang hiện diện trong Thánh Thể, đem lòng tin và lòng mến của chúng ta đền bù những khoảnh khắc lơ là, những bổn phận thiếu sót, và cả những xúc phạm Đấng cứu thế của chúng ta phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới. Ước gì trong khi tôn thờ như thế, chúng ta đào sâu đời sống chiêm niệm của cá nhân cũng như cộng đoàn, nhờ có những bản văn trợ giúp cầu nguyện luôn thấm đẫm Lời Thiên Chúa và nhờ kinh nghiệm của biết bao nhà thần bí từ trước đến nay! Chính Kinh Mân côi, hiểu theo nghĩa thâm sâu nhất, vốn mang đậm nét Kinh Thánh và quy Kitô, lời kinh tôi đã nhắn nhủ trong tông thư Rosarium Virginis Mariae, sẽ là một phương thế rất phù hợp cho việc chiêm niệm Thánh Thể cùng với Đức Maria trong sự đồng hành và hướng dẫn của Mẹ[19].
Cũng trong Năm này, ước chi chúng ta hãy tỏ lòng sùng mộ đặc biệt mừng lễ trọng kính Mình và Máu thánh Chúa Kitô, bằng những cuộc rước kiệu truyền thống. Ước gì niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng khi nhập thể đã trở thành người bạn đường của chúng ta được công bố ở bất cứ nơi nào, đặc biệt trên các đường phố và trong các mái ấm của chúng ta, như thể đó là cách chúng ta biểu tỏ lòng mộ mến tri ân và là nguồn suối phúc lành không bao giờ tát cạn được.
III. THÁNH THỂ LÀ NGUỒN MẠCH VÀ BIỂU LỘ TÌNH HIỆP THÔNG
“Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4)
19. Trên đường đi Emmaus, khi các môn đệ nài xin Đức Giêsu ở lại với họ, Người trả lời bằng một ân huệ lớn lao hơn rất nhiều: Người tìm được cách để ở lại “nơi” họ nhờ Bí tích Thánh Thể. Đón nhận Thánh Thể, đó là đi vào hiệp thông sâu xa với Đức Giêsu, “hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4). Mối tương quan do sự hiệp nhất thâm sâu và hỗ tương này cho chúng ta tham dự trước, một cách nào đó, những thực tại trên trời đang khi chúng ta còn ở dưới đất này. Đó chẳng phải là khát vọng lớn nhất của con người hay sao? Đó chẳng phải là điều Thiên Chúa muốn khi thực hiện chương trình cứu độ của Người trong lịch sử sao? Người đã đặt trong tâm hồn con người “cơn đói” Lời của Người (x. Am 8,11), một cơn đói chỉ có thể được thoả mãn nhờ sự kết hiệp trọn vẹn với Người. Khi rước Thánh Thể, tức là lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, chúng ta được “no thoả” Thiên Chúa ngay trên cõi đời này, đang khi vẫn mong đợi cơn đói ấy sẽ được thoả thuê sung mãn trên thiên quốc.
Một tấm bánh, một thân thể
20. Thế nhưng, mối thâm giao đặc biệt, do việc “lãnh nhận” Thánh Thể đem lại, không thể được hiểu chính xác, cũng chẳng thể cảm nghiệm đầy đủ, nếu đương sự không thông hiệp với Hội Thánh. Đó là điều tôi đã nhiều lần nhấn mạnh trong thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô: đang khi tiến bước cùng “với Đức Kitô”, quãng cách giữa chúng ta với Người còn xa hay gần là tùy mức độ chúng ta thông hiệp “với Thân Thể của Người”. Đức Kitô đã lo sáng tạo và tăng trưởng sự hiệp nhất này nhờ việc đổ tràn Thần Khí. Và chính Người cũng không ngừng kiến tạo mối dây hiệp nhất đó bằng sự hiện diện của Người trong Thánh Thể. Thực vậy, chính tấm bánh Thánh Thể duy nhất làm cho chúng ta thành một thân thể. Thánh Phaolô đã xác quyết điều ấy: “Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ chỉ một bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta chỉ là một thân thể (1 Cr 10,17). Trong mầu nhiệm Thánh Thể, Đức Giêsu xây dựng Hội Thánh thành một sự hiệp thông, thích đáng với khuôn mẫu tuyệt đẳng Người đã khởi xướng trong lời nguyện hiến tế: “Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ cũng nên một trong chúng ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
21. Nếu Thánh Thể là nguồn mạch cho sự hiệp nhất của Hội Thánh, thì Thánh Thể cũng là sự biểu lộ lớn lao nhất về sự hiệp nhất này. Thánh Thể là hiện thân của hiệp thông. Chính vì thế mà Hội Thánh đặt ra những điều kiện cần thiết để được thông dự trọn vẹn vào việc Cử hành Thánh Thể[20]. Những ngăn trở cũng được nêu ra nhằm giúp chúng ta càng ngày càng ý thức hơn về tất cả bó buộc do sự hiệp thông đòi hỏi, và chính Đức Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta hướng tới sự hiệp thông đó. Trước tiên, đó là sự hiệp thông theo phẩm trật, đặt nền tảng trên sự ý thức về những vai trò và những thừa tác vụ khác nhau, và cũng không ngừng được xác định trong Kinh Tạ Ơn qua việc nhắc đến Đức giáo hoàng và Đức giám mục giáo phận. Tiếp đến, đó là sự hiệp thông huynh đệ, được nuôi dưỡng nhờ một “linh đạo hiệp thông”, thúc giục chúng ta hãy có những tâm tình rộng mở đón nhận nhau, cảm mến, hiểu biết và tha thứ cho nhau[21].
Chỉ có một lòng một ý (Cv 4,32)
22. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta được mời gọi trực diện với lý tưởng hiệp thông, được sách Công vụ Tông đồ đưa ra làm khuôn mẫu cho Hội Thánh mọi thời. Đây là Hội Thánh được quy tụ chung quanh các Tông Đồ, được Lời Thiên Chúa triệu tập, có khả năng chia sẻ không phải chỉ những tài sản tinh thần, mà cả những của cải vật chất nữa (x. Cv 2,42-47 ; 4,32-35). Trong Năm Thánh Thể này, Chúa mời gọi chúng ta xích lại gần sát tối đa với lý tưởng này. Ước chi mọi người ai nấy đều khao khát sống và cảm nghiệm sâu sắc những dịp thuận tiện do phụng vụ gợi lên dành cho “lễ trạm”, là thánh lễ do giám mục giáo phận cử hành tại nhà thờ chính toà của mình, có các linh mục, phó tế và mọi thành phần của Dân Thiên Chúa tham dự. Tại những dịp lễ như vậy, chúng ta sẽ nhìn thấy “diện mạo” chính yếu của Hội Thánh[22]. Thêm vào đó, tôi rất hoan nghênh những sáng kiến đề xuất thêm những dịp lễ khác nữa, ngay cả ở cấp giáo xứ, nhằm giúp các tín hữu gia tăng cảm thức hiệp thông và luôn kín múc được sức năng động tươi mới từ việc Cử hành Thánh Thể.
Ngày Chúa nhật
23. Trong năm này, tôi đặc biệt mong ước mọi người sẽ chú tâm cách riêng để tái khám phá và sống trọn vẹn Ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa và là Ngày của Hội Thánh. Tôi lấy làm vui mừng nếu ai nấy suy gẫm lại những gì tôi đã viết trong tông thư Dies Domini. Thực vậy, “chính trong Thánh lễ Chúa Nhật, các Kitô hữu đặc biệt hồi tưởng lại những cảm nghiệm mãnh liệt của các Tông Đồ họp nhau vào buổi chiều ngày Vượt qua, khi Đấng phục sinh hiện ra trước mặt các ông (x. Ga 20,19). Trong hạt nhân nhỏ bé là các môn đệ, những hoa quả đầu mùa của Hội Thánh ấy đã hiện diện cách nào đó Dân Thiên Chúa thuộc mọi thời đại”[23].Suốt năm ân sủng này, các linh mục, qua hoạt động mục vụ của mình, cần chú tâm nhiều hơn nữa đến Thánh lễ Chúa Nhật, vì trong việc cử hành này, cộng đoàn giáo xứ trở nên một lòng một ý, và cũng cần để ý đến những nhóm, phong trào, hội đoàn khác nhau thường xuyên tham gia vào Thánh lễ này.
IV. THÁNH THỂ LÀ NGUYÊN LÝ VÀ LÀ DỰ PHÓNG CỦA “SỨ VỤ”
“Ngay lúc ấy, họ đứng dậy” (Lc 24,33)
24. Sau khi nhận ra Chúa, hai môn đệ Emmaus “đứng dậy ngay lúc ấy” (x. Lc 24,33) để đi loan báo điều họ đã thấy và đã nghe. Khi đã có một kinh nghiệm xác thực về Đấng phục sinh, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Người, người ta không thể nào giữ riêng cho mình niềm vui mình đã cảm nếm. Việc gặp gỡ Đức Kitô, được vùi sâu thêm mãi trong sự hiệp thông Thánh Thể, sẽ khơi dậy trong Hội Thánh và nơi mỗi người Kitô hữu sự cấp thiết phải làm chứng và phải loan báo Tin Mừng. Tôi đã nhấn mạnh đến điều này trong bài giảng khi công bố Năm Thánh Thể, bằng cách dẫn lời thánh Phaolô: “Thật vậy, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, anh em công bố sự kiện Chúa đã chết cho đến ngày Người đến” (1Cr 11,26). Thánh Tông Đồ nêu lên mối liên hệ chặt chẽ giữa bàn tiệc và việc loan báo: hiệp thông với Đức Kitô trong lễ tưởng niệm cuộc Vượt qua của Người cũng đồng thời có nghĩa là kinh nghiệm về nhu cầu nhất thiết phải trở thành những người được sai đi loan báo biến cố đã được hiện tại hoá trong nghi lễ này[24]. Lời chào kết thúc cuối mỗi thánh lễ chính là một trách nhiệm được trao cho người Kitô hữu, thúc đẩy người Kitô hữu dấn thân làm cho Tin Mừng lan toả và làm cho xã hội được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo.
25. Với một sứ vụ như thế, Thánh Thể không chỉ đem lại sức mạnh nội tâm, nhưng còn – theo một ý nghĩa nào đó – mở ra một dự phóng. Thật vậy, Thánh Thể là một cách thức hiện hữu được chuyển từ Đức Kitô sang người Kitô hữu và, nhờ chứng tá của người Kitô hữu, được lan toả trong xã hội và trong văn hoá. Để yếu tố này trở thành hiện thực, mỗi tín hữu cần phải hấp thụ, qua việc suy niệm cá nhân và cộng đoàn, những giá trị được Thánh Thể diễn tả, những thái độ được Thánh Thể gợi mở, những cách giải quyết trong đời sống do Thánh Thể khơi dậy. Đến đây, lẽ nào chúng ta lại không nhận ra một trách nhiệm đặc biệt phát sinh từ Năm Thánh Thể ?
Tạ ơn
26. Một yếu tố nền tảng của dự phóng này xuất phát từ chính ý nghĩa của hạn từ “Thánh Thể”: “Tạ Ơn”. Nơi Đức Giêsu, trong hiến tế của Người, trong lời thưa “xin vâng” vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, có tiếng “xin vâng”, tiếng “cảm ơn” và tiếng “amen” của toàn thể nhân loại. Hội Thánh được mời gọi để nhắc nhớ chân lý cao cả ấy cho toàn thể nhân loại. Đây là điều cấp thiết phải thực hiện, đặc biệt là trong nền văn hoá bị tục hoá của chúng ta, một nền văn hoá ám ảnh não trạng lãng quên Thiên Chúa và cổ võ thói tự mãn phù phiếm của con người. Đưa dự phóng Thánh Thể vào cuộc sống thường ngày, đến bất cứ nơi nào con người sinh sống và làm việc – trong gia đình, trường học, xí nghiệp, trong mọi môi trường sinh sống – có nghĩa là làm chứng rằng thực tại nhân loại không thể được chứng thực nếu không quy chiếu về Đấng Sáng tạo: “Không có Đấng Sáng tạo, thụ tạo sẽ tan thành mây khói”[25]. Điểm quy chiếu siêu việt này thúc giục chúng ta hãy cất lời “cảm ơn” liên lỉ về tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là. Nói cách khác, thái độ “Biết ơn” phải lẽ ấy không hề gia giảm tính độc lập xác đáng của những thực tại trần thế[26], nhưng hoạch định cho những thực tại ấy một vị trí rạch ròi hơn, đồng thời còn cho thấy những giới hạn tất nhiên của chúng.
Trong Năm Thánh Thể này, ước mong các Kitô hữu nỗ lực dấn thân hơn nữa để làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới! Chúng ta đừng sợ nói về Thiên Chúa và hãy dạn dĩ nêu lên những chứng từ cho niềm của mình. “Nền văn hoá Thánh Thể” sẽ cổ vũ một nền văn hoá đối thoại, đồng thời mang đến cho nền văn hoá này sức mạnh và tố chất bổ dưỡng. Thật là nhầm lẫn khi cho rằng mọi quy chiếu công khai về đức tin đều có thể gây phương hại đến sự độc lập chính đáng của quốc gia và các thể chế dân sự, hoặc sẽ rất sai lầm nếu cứ hô hào lập trường bất bao dung. Nếu lịch sử đã chứng tỏ những sai lầm đó có thể xảy ra ngay cả giữa các tín hữu, như tôi đã có dịp nhìn nhận trong Năm toàn xá 2000, thì sai lầm đó không phải do “nguồn cội Kitô giáo”, nhưng là do sự bất đồng quan điểm giữa các Kitô hữu đang khi tất cả đều muốn trung thành với nguồn cội của mình. Người nào học thưa lời “cảm ơn” theo cách thức của Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, thì người ấy sẽ có thể là chứng nhân tử đạo, chứ không bao giờ lại là một tên đao phủ.
Con đường của tình liên đới
27. Thánh Thể không phải chỉ là một cách diễn tả sự hiệp thông trong đời sống của Hội thánh, nhưng còn là một dự phóng về tình liên đới cho toàn thể nhân loại. Trong việc cử hành Thánh Thể, Hội Thánh không ngừng canh tân ý thức của mình là “dấu chỉ và dụng cụ” không phải chỉ cho sự hiệp nhất sâu xa với Thiên Chúa nhưng còn cho sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại nữa[27]. Mỗi Thánh lễ, dù được cử hành cách kín đáo hay tại một miền đất xa xôi nào trên thế giới, vẫn luôn luôn là dấu chỉ của sự phổ quát. Người Kitô hữu tham dự Thánh Thể thì nhờ Thánh Thể mà học biết trở thành những người kiến tạo sự hiệp thông, hoà bình và liên đới trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hình ảnh về một thế giới của chúng ta bị xé rách, một thế giới đã khai mạc Thiên niên kỷ mới với cám cảnh khủng bố và bi kịch chiến tranh, hơn bao giờ hết, thế giới ấy vẫn thúc giục người Kitô hữu hãy học cho biết kinh nghiệm này: Thánh Thể đúng là một trường học tuyệt đẳng về hoà bình, nơi đây các thiện nam tín nữ, tuỳ theo mức độ đảm nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội, văn hoá, chính trị, đang được đào tạo để trở thành những người kiến tạo bầu khí đối thoại và hiệp thông.
Phục vụ những người bé mọn
28. Còn một điểm nữa tôi muốn mọi người chú tâm đến bởi vì chính đây là chỗ đáng kể để cho thấy việc tham dự Thánh Thể, được cử hành trong cộng đoàn, có thành thực hay không: đó là sự thúc đẩy của Thánh Thể đối với cộng đoàn để dấn thân một cách thực tiễn nhằm kiến tạo một xã hội công bằng và huynh đệ hơn. Trong Thánh Thể, Thiên Chúa của chúng ta đã bày tỏ cách thức tối hậu của tình yêu, đảo lộn mọi tiêu chuẩn về quyền bính vẫn thường xuyên chi phối những mối tương giao của con người và quyết liệt khẳng định tiêu chuẩn phục vụ: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người” (Mc 9,15). Không phải là ngẫu nhiên khi chúng ta không thấy trình thuật thiết lập Thánh Thể trong Tin Mừng theo thánh Gioan, nhưng lại có câu chuyện về “việc rửa chân” (x. Ga 13,1-20): Khi quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu đã giải thích một cách minh bạch ý nghĩa thâm thuý của Thánh Thể. Đến lượt mình, thánh Phaolô mạnh dạn khuyến cáo rằng, quả là vô phép lắm thay, nếu cứ liều lĩnh cử hành Thánh Thể mà không toả sáng lòng mến, lòng mến ấy được biểu lộ qua những việc chia sẻ rất cụ thể với những anh chị em túng nghèo (x. 1 Cr 11,17-22. 27-34).
Vậy hà cớ gì chúng ta lại không lấy Năm Thánh Thể này làm dịp thuận tiện để các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ dấn thân vào một hoạt động cụ thể nào đó, nhờ tình huynh đệ thúc bách, nhằm giải trừ rốt ráo một trong muôn vàn hình thức túng nghèo đang hoành hành trong thế giới chúng ta? Tôi nghĩ đến thảm họa đói kém đang đày đọa hàng trăm triệu con người, tôi nghĩ đến những căn bệnh đang tàn phá những quốc gia đang phát triển, đến cảnh neo đơn của những người cao niên, đến cảnh sống bấp bênh của những người thất nghiệp, đến nỗi thống khổ của những người di cư. Đó là những sự dữ đang hoành hành – dưới nhiều hình thức khác nhau – ngay cả tại những miền đất sung túc nhất. Chúng ta không thể dối lòng được đâu: chỉ nhờ tình yêu hỗ tương, và nhất là, nhờ vòng tay rộng mở chúng ta dành cho những anh chị em đang sống trong cảnh túng bấn, chúng ta mới được nhìn nhận là những người môn đệ chân chính của Đức Kitô (Ga 13,35 ; Mt 31,21-46). Đó là tiêu chí dùng để lượng định xem các cuộc cử hành Thánh Thể của chúng ta đã là chân thực hay chưa.
KẾT LUẬN
29. O Sacrum Convivium, in quo Christus sumitur! Ôi yến tiệc Mình và Máu Thánh, Chúa Kitô thành lương thực nuôi ta ! Năm Thánh Thể phát xuất từ tâm tình cảm phục đến kinh ngạc của Hội Thánh trước Mầu nhiệm kỳ vĩ này. Đó là một niềm cảm phục không ngừng xâm chiếm tâm trí tôi và từ đó đã xuất phát thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Tôi cảm thấy như một ân sủng lớn lao vào năm thứ hai mươi bẩy của tôi trong vai trò kế vị thánh Phêrô, tôi có thể mời gọi toàn thể Hội Thánh chiêm ngắm, ca tụng và thờ lạy một cách rất đặc biệt Bí tích khôn tả này. Ước mong Năm Thánh Thể trở thành một dịp quý báu để mọi người ý thức hơn nữa về kho tàng vô giá Đức Kitô đã trao phó cho Hội Thánh. Chớ gì Năm này sẽ thành một động cơ thúc đẩy để việc cử hành Thánh Thể được sống động hơn và sốt sắng hơn, từ đó nảy sinh một cuộc sống Kitô giáo được biến đổi nhờ tình yêu.
Tùy theo phán đoán của các vị Mục tử tại các Hội Thánh địa phương, nhiều sáng kiến có lẽ sẽ được thực hiện theo viễn tượng này. Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích hẳn sẽ đưa ra những gợi ý và những đề nghị hữu ích về vấn đề này. Tuy nhiên, tôi không yêu cầu làm những việc khác thường, chỉ mong sao mọi sáng kiến đều phát xuất từ tinh thần nội tâm sâu xa. Nếu hoa trái của Năm này chỉ là việc cử hành Thánh lễ Chúa Nhật trong mọi cộng đoàn Kitô giáo sinh động và giúp cho việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ được gia tăng, thì có lẽ Năm ân sủng này đã đạt được kết quả tốt đẹp rồi. Tuy nhiên, nên nhắm cao hơn chứ đừng chỉ bằng lòng với những mức độ tầm thường, vì biết rằng chúng ta có thể luôn luôn trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
30. Anh em trong Hàng giám mục thân mến, tôi trao phó Năm này cho anh em, tin chắc rằng anh em sẽ đón nhận lời mời gọi của tôi với tất cả nhiệt tâm tông đồ.
Còn anh em, các linh mục, mỗi ngày anh em đọc lại những lời truyền phép và anh em là những chứng nhân đồng thời cũng là những người loan báo phép lạ tình yêu lớn lao đang diễn ra trên tay anh em, hãy để cho ân sủng của Năm đặc biệt này cật vấn anh em, bằng cách mỗi ngày cử hành Thánh lễ với niềm vui và lòng sốt sắng nhiệt thành của lần đầu tiên cũng như luôn sẵn sàng cầu nguyện trước nhà tạm.
Ước mong Năm này trở thành năm ân sủng cho anh em, các phó tế, anh em là những người dấn thân trong thừa tác vụ phục vụ Lời và phục vụ Bàn thờ. Cả anh em nữa, các người đọc sách và các người giúp lễ, các thừa tác viên cho rước lễ ngoại thường, anh em hãy luôn ý thức sống động về hồng ân được ban cho anh em trong các trách vụ phục vụ anh em được uỷ thác, để việc cử hành Thánh Thể được thực hiện cách xứng hợp.
Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời với anh em là những linh mục tương lai: trong cuộc sống tại chủng viện, anh em hãy cố gắng để nghiệm thấy không những việc tham dự thánh lễ mỗi ngày, nhưng còn cả việc nán lại lâu giờ để nói chuyện với Chúa Giêsu Thánh Thể là việc êm đềm dịu ngọt.
Và với tất cả anh chị em, những người nam nữ sống đời thánh hiến: qua chính việc thánh hiến, anh chị em được mời gọi để chiêm ngưỡng lâu giờ hơn. Anh chị em hãy luôn nhớ rằng Chúa Giêsu trong nhà tạm chờ đợi anh chị em đến với Người, để đổ tràn vào tâm hồn anh chị em kinh nghiệm sâu xa về tình bằng hữu của Người. Chỉ có tình bằng hữu thân thiết ấy mới mang lại cho đời sống của anh chị em ý nghĩa trọn vẹn.
Với tất cả anh chị em, những người tín hữu, anh chị em hãy tái khám phá ra hồng ân Thánh Thể là ánh sáng và sức mạnh cho cuộc sống thường ngày của anh chị em trong thế giới, trong khi làm việc, và trong những cảnh huống thật khác nhau. Anh chị em hãy luôn khám phá lại hồng ân này để sống trọn vẹn vẻ đẹp và sứ mạng của nếp sống gia đình.
Sau cùng, tôi chờ đợi nhiều nơi anh chị em, các bạn trẻ, khi tôi nhắc lại với các bạn lời hẹn sẽ gặp lại nhau trong Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Cologne. Đề tài của cuộc gặp gỡ này là: chúng ta đến thờ lạy Người (Mt 2,2) có thể gợi lên cho các bạn một thái độ cần có trong Năm Thánh Thể này. Khi gặp gỡ Đức Giêsu ẩn mình dưới hình bánh rượu, các bạn hãy mang đến tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, của niềm hy vọng và khả năng yêu mến của các bạn.
31. Gương mẫu của các thánh ở trước mắt chúng ta. Trong Thánh Thể, các ngài đã tìm được lương thực cho con đường hoàn thiện của mình. Biết bao nhiêu lần các ngài đã chẳng rơi lệ cảm động khi cảm nghiệm về một mầu nhiệm cao cả như thế, và cũng biết bao lần các ngài đã chẳng sống những giờ phút trong niềm vui khôn tả của “tân nương” trước Bí tích Bàn thờ đó sao? Trên hết, chúng ta cùng hướng lên Đức Trinh Nữ Maria, người đã hội nhập các chiều kích Thánh Thể vào toàn bộ cuộc đời của mình, xin người trợ giúp chúng ta. “Khi nhìn lên Đức Maria là gương mẫu của mình, Hội Thánh cũng được mời gọi noi theo người trong mối thâm giao của người với Mầu nhiệm chí thánh này”[28]. Bánh Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận chính là thịt tinh tuyền của Chúa Con: Ave verum corpus natum de Maria Virgine”, kính lạy Thân Thể đích thực đã sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria. Trong Năm ân sủng này, ước chi nhờ sự trợ giúp của Đức Maria, Hội Thánh tìm được đà tiến mới cho sứ mạng của mình và càng ngày càng nhận thấy rõ rệt Thánh Thể chính là nguồn mạch và đỉnh cao của toàn thể đời sống Hội Thánh.
Ước chi Phép lành tôi gửi đến anh chị em mang lại cho anh chị em ân sủng và niềm vui.
Ban hành tại điện Vatican, ngày 07 tháng mười năm 2004,
    Lễ Đức Mẹ Mân Côi,                                
năm thứ hai mươi sáu tôi làm Giáo hoàng.              
+ IOANNES PAULUS II                               
Giáo hoàng