Bài 1
Is 61,1-2a.10-11; Ga 1,6-8,19-28
Chủ đề: NIỀM VUI: niềm vui ĐƯỢC CỨU ĐỘ, CÓ CHÚA Ở CÙNG.
* Is 61,10: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ YAVÊ, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao.
* Ga 1,26: Gioan làm chứng: “có một Đấng đang ở giữa các ông”.
Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Vọng, hôm nay là Chúa Nhật III Mùa Vọng. Truyền thống phụng vụ trong Hội Thánh gọi là Chúa Nhật HỒNG, Chúa Nhật của Niềm Vui. Niềm Vui được biểu lộ qua y phục phụng vụ: chủ tế có thể mặc lễ phục HỒNG thay cho TÍM…Thế nhưng trong thân phận phù du, mỏng dòn của con người thì thế nào là NIỀM VUI? Cũng là một sự việc, nhưng là Vui đối với người này, lại có thể là buồn lo đối với kẻ khác! Ngay cả đối với một cá nhân, cũng chỉ là một sự việc thôi mà vào thời điểm này là vui, rồi vào thời điểm khác lại thành âu lo!
Vậy NIỀM VUI mà Chúa muốn mang cho chúng ta là Niềm Vui nào? Niềm Vui ấy có trùng khớp với những khát vọng mà chúng ta mong mỏi đợi trông hay không? Nếu Niềm Vui Chúa mang đến và khát vọng của chúng ta chỏi nghịch nhau thì phản ứng của chúng ta sẽ như thế nào?
Lời Chúa hôm nay, đặc biệt trong bài đọc một và hai mời chúng ta chiêm ngắm Niềm Vui mà Chúa mang đến; Còn Tin Mừng sẽ cho thấy thái độ đáp trả từ phía con người trước Niềm Vui Chúa mang đến ấy.
Niềm Vui trong bài đọc một là Niềm Vui của NGƯỜI MÔN ĐỆ, được Chúa tuyển chọn rồi tuôn ơn lành, trao sứ mạng sai đi phục vụ cho ơn cứu độ của dân Chúa: YAVÊ trao ban Thần Khí của Chúa cho người môn đệ; Xức dầu tấn phong làm cộng sự viên của Chúa làm người phục vụ: “sai đi báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố NĂM HỒNG ÂN của Chúa”. Đó là Niềm Vui ra sức PHỤC VỤ dự tính cứu độ của Chúa trong tư cách là người môn đệ được Chúa chọn.
Trước ân huệ lớn lao được phục vụ công trình cứu độ của Chúa đó, người môn đệ HÂN HOAN diễn tả Niềm Vui thần linh mình được hưởng qua những cách nói truyền thống: được mặc áo hồng ân cứu độ, được choàng đức chính trực công minh…Niềm Vui của cô dâu chú rể trong ngày cưới…Niềm Vui được trúng mùa.
Cũng trong chiều hướng về ơn cứu độ, Niềm Vui trong bài đọc hai, Thơ một gửi Thêxalônica là Niềm Vui “cầu nguyện không ngừng”, “Tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”; Niềm Vui để Thần Khí Chúa bừng cháy trong mình để đón nhận ơn Chúa, biện phân tốt xấu hầu hưởng Niềm Vui “lánh xa điều xấu dưới mọi hình thức”; Niềm Vui gìn giữ xác hồn mãi vẹn sạch cho đến ngày Chúa quang lâm. Một Niềm Vui thánh thiện bao trùm cả hiện tại, tương lai.
Tiếc thay, đến Tin Mừng, Niềm Vui như bị chùn lại bởi thái độ nghi kỵ qua lời chất vấn mà các “người Do Thái từ Giêrusalem” đặt ra cho Gioan. Họ là những nhà lãnh đạo tôn giáo, thông luật, có phương tiện, quyền lực trong tay…lẽ ra họ phải là những người nhận ra Đức Giêsu, hướng dẫn dân đến với Người, khi Người xuất hiện; Tiếc thay vì tư lợi, địa vị phe nhóm họ đã thành kẻ chống đối Đức Giêsu (x.Ga 11,46-53). Niềm Vui lại trở thành nỗi âu lo của họ. Vì thế khi thấy việc Gioan làm có nhiều nét như đe dọa quyền lợi của họ, họ sai người đến chất vấn Gioan.
Thật vậy với lời rao giảng, đời sống và việc làm phép rửa của mình, Gioan Tẩy Giả đã làm dấy lên cả một phong trào tôn giáo, có kèm theo những lễ nghi dựa trên việc chịu phép rửa, thú nhận tội lỗi (Mt 3,6) giục lòng sám hối (Mt 3,11) để được ơn tha tội (Mc 1,4b). Vai trò của các thủ lãnh tôn giáo như bị lu mờ trước con người và sứ điệp của Gioan. Họ phải có thái độ, phải bảo vệ quyền bính của mình, phải lấy lại uy tín…Họ sai người đến đặt ra cho Gioan ba câu hỏi về CĂN TÍNH của Gioan. Ông là ai mà dám làm phép rửa? Xúi dạy người ta phải thú tội để được ơn tha tội? Đó lại là dịp tốt để Gioan hoàn tất vai trò CHỨNG NHÂN của ông đã được loan báo trong Lời Tựa (Ga 1,6-8.15), và nhất là ông loan báo NIỀM VUI đã tới: “CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT” (Ga 1,26). “Có Chúa ở cùng” là ơn huệ lớn lao, là niềm vui vĩ đại mà Thiên Chúa hứa trao ban cho dân Chúa (x.Is 7,14).
Như vậy Niềm Vui mà Tin Mừng mang đến cho ta là giữa bao cảnh chống đối, tiêu cực, ác ý từ phía kẻ nghịch thì tín hữu vẫn VUI vì biết chắc rằng Đấng Thiên Sai, Vị Cứu Tinh cũng chính là Thiên Chúa ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA. Niềm Vui giáng sinh chính là Niềm Vui biết chắc rằng CHÚA GIÊSU NGỰ TRỊ LÒNG TA. LUÔN LUÔN! (Lời chào chúc La San).
Bài 2
Is 61,1-2a.10-11
Ga 1,6-8,19-28
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan (Ga 1,6), ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (c.7). Ông không phải là ánh sáng (c.8a)… mà là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy làm cho thẳng trở lại con đường của CHÚA (Kuriou) (c.23).
Mùa Vọng đã bước vào Chúa Nhật 3. Phụng vụ Lời Chúa tiếp tục mời gọi chúng ta xác tín Chúa đang tới gần và đáp lại là tâm tình hoán cải, đổi mới con người để nghênh đón Chúa. Tuy hiên điểm nhấn của phụng vụ Lời Chúa tuần này không dừng lại ở thái độ cá nhân, tâm trạng đợi chờ khép kín trong con người mình mà là một lời khích lệ hãy phấn khởi hân hoan loan báo niềm tin, niềm hy vọng của mình cho người khác. Niềm vui chuẩn bị đón Chúa đến không là chuyện riêng tư cá nhân nhưng phải được loan báo, lan tỏa ra cho mọi người. Lời Chúa của Chúa Nhật 3B Mùa Vọng thúc đẩy tín hữu lên đường, dấn thân can đảm đáp trả lại lời mời gọi cuả Thiên Chúa muốn sai phái, biến đổi kẻ tin thành những người loan báo Tin Mừng, thành cánh tay nối dài của Chúa và nhất là can đảm đáp lời trở thành CHỨNG NHÂN giúp mọi người nhận ra được NIỀM VUI CỨU ĐỘ là Chúa đang ở giữa chúng ta.
Chúng ta bước sang một bước ngoặt mới của Mùa Vọng: lòng trông cậy, phó thác đợi chờ biến thành lòng NHIỆT THÀNH. “Người-đang-chờ-đợi” giờ trở thành SỨ GIẢ, trở thành CHỨNG NHÂN cho Đấng mình đang mong đợi. Giữa thế giới đầy tiêu cực, khổ đau, bùn nhơ, bóng tối, ơn Chúa biến đổi, thúc đẩy kẻ tin làm ánh sáng lóe lên trong bóng đêm chờ ngày Ánh Sáng Vĩnh Cửu xuất hiện xua tan bóng tối.
– Thần Khí Chúa Yavê ngự trên tôi, xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo Tin Mừng. Do đó tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Yavê, Thiên Chúa tôi thờ (bài 1).
– Thiên Chúa sai đến một người tên Gioan, ông đến để làm chứng nhân về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin và tin nhận ra được và vui mừng vì Đấng mà mọi người mong đợi “đang ở giữa chúng ta” (Tin Mừng).
Vì thế:
Chủ điểm phụng vụ
Chủ điểm phụng vụ của Chúa NHật 3 Mùa Vọng luôn là NIỀM VUI, được biểu lộ trước mắt là y phục phụng vụ: HỒNG thay cho TÍM. Lời Chúa cho thấy lý do thẳm sâu của niềm vui là vì dân Chúa, những ai mong đợi Người đã thoáng thấy ơn cứu độ đang dần ló dạng. Niềm hy vọng được đổi đời đã là nguyên nhân của niềm vui.
Bài đọc 1 giới thiệu ơn gọi và sứ mạng của một nhân vật tự xưng là “TÔI” (Ngôn sứ? Mêsia?…) được Yavê xức dầu tấn phong, sai đi loan TIN MỪNG cho những người đang sống trong cảnh lầm than, công bố cho họ năm hồng ân, Thiên Chúa sắp can thiệp giải cứu họ. Đáp lại tin mừng ấy, “TÔI” (Israel? ngôn sứ?) đã biểu lộ niềm vui bằng lời tán dương ơn cứu độ và ca tụng Yavê.
Tin Mừng hôm nay thuật lại chứng từ của Gioan đáp lại lời chất vấn của một số tư tế và Lêvi đến từ Giêrusalem. Bất chấp những lời soi mói của địch thủ, chứng từ của Gioan ẩn chứa một niềm vui lớn lao, trọn vẹn ngang qua lời công bố của “một người được Thiên Chúa sai đến”. Đấng mà tuyển dân hằng mong đợi nay đã đến rồi. Thật vậy qua lời trích Is 41,3, Gioan Tẩy Giả công khai xác nhận thẳng rằng ông chính là vị tiền sứ của Thiên Chúa, của Đấng Mêsia. Và ông còn khẳng định: Đấng ấy đã đến rồi và đang ở giữa dân. Đó quả là tin vui vĩ đại, tiếc thay dân chưa nhận ra.
Như vậy, chúng ta hôm nay hoàn toàn có đủ lý do để mừng vui. Vấn đề còn lại là làm sao nhận cho ra Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta để niềm vui của chúng ta không chỉ là niềm vui hồi hộp, thấp thỏm của kẻ đang khắc khoải mong chờ, nhưng là NIỀM VUI TRỌN VẸN vì tin “THIÊN CHÚA đang ở cùng chúng ta”. Càng vui hơn nữa khi được biết ý định của Thiên Chúa là muốn chúng ta trở thành cánh tay nối dài của Chúa và nhất là thành chứng nhân để mọi người nhận biết rằng Chúa đang ở giữa họ (Ga 1, 26).
BÀI ĐỌC I: Is 61, 1-2a. 10-11
Văn mạch
Ba chương 60, 61,62 làm thành một khối thống nhất ca tụng Giêrusalem vinh hiển. Hai chương 60 và 62 nhấn mạnh đến việc hồi phục Giêrusalem, và những phúc lộc huy hoàng của Giêrusalem. Thành vừa mới ra khỏi cảnh nhục nhằn của việc con cái bị lưu đày, cần được củng cố thêm niềm tin và hy vọng: Thành sẽ được chiếu sáng, sẽ gặp lại con cái mình; rồi được ngoại bang đến tăng cường lực lượng, của cải, dân số.
Riêng chương 61, gồm 11 câu, chủ đề phục hồi Giêrusalem (cc.5-9) được chèn giữa hai đoạn: một nói về ơn gọi và sứ mạng của một nhân vật đặc biệt (1-4), và một nói về niềm vui của người được giải cứu (10-11). Riêng phần 1 và 3, nhân vật “Tôi” có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Xin đưa ra hai cách:
Trong tâm tình phụng vụ của Chúa Nhật III Mùa vọng, tôi chọn lối hiểu của TOB. Vị anh hùng (mêsia) được hiểu là Đức Giêsu: Người được đầy Thần Khí và sứ mạng của Người là đến cứu chúng ta. Và phần chúng ta, một khi nhận ra ơn cứu độ do Người mang đến thì chúng ta vui mừng ca khen tình yêu Thiên Chúa.
Phụng vụ chỉ sử dụng hai câu đầu (1-2a) và hai câu chót (10-11) của chương 61. Hai phần này nói lên sứ mạng của Đấng Mêsia và niềm vui của chúng ta vì được cứu độ. Đó là tâm tình chính của Mùa Vọng.
CẤU TRÚC VÀ SUY NIỆM
-
Dự tính của “Đức Chúa Yavê (= Adanai- Yavê)” đối với Irael được mạc khải qua nhân vật “Tôi” (Is 61,1-20)
Người của Chúa (Tôi) tự giới thiệu:
-
Ơn gọi:- được Thần Khí Đức Chúa Yavê ngự trên mình
-
Được Yavê xức dầu tấn phong.
-
-
Sứ mạng: được Yavê sai đi đến với dân đang gặp bất hạnh:
– loan báo tin mừng…
– chữa lành…
– công bố ơn giải phóng
– công bố năm hồng ân và ngày Thiên Chúa báo phục.
Qua lời giới thiệu của “Tôi” (có thể là ngôn sứ và cũng có thể là mêsia của Thiên Chúa), bản văn cho thấy dự tính của Thiên Chúa đối với Israel. Cách chung có thể hiểu “Tôi” chính là ngôn sứ được Chúa chọn và sai đi: ngôn sứ cũng được xức dầu tân phong (1V 16,19), cũng được Thần Khí Chúa nhập vào để làm công việc Chúa (1Sm 10, 6.10), cũng như để làm dấu chỉ nhận ra bàn tay Chúa.
Tuy nhiên trong tinh thần Mùa Vọng chờ đợi Đấng Thiên Sai cứu tinh, thì ngôn sứ tác giả không thể là Đấng ấy được. Vậy “Tôi’ ở đây nhắm tới một mêsia mà chính tác giả cũng chưa rõ là ai, nhưng nhìn vào ơn gọi của mình và nhìn ngắm niềm cậy trông của thế hệ đàn anh trong Is 11,2; 41,2, tác giả mô tả dung mạo, ơn gọi, sứ mạng của đấng ấy và dặt lời mô tả ấy trên môi miệng của chính đấng ấy. Vài nét dung mạo Đấng ấy:
Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi: Thần Khí là ơn đặc biệt được Thiên Chúa trao cho những người được Chúa mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa; đặc biệt được trao ban sung mãn và hàm ý vĩnh viễn trên “Mầm Non”, vị minh quân thay thế được Đavit (Is 11,1-2); Người Tôi Trung của Đức Chúa (42,1).
Yavê đã xức dầu tấn phong tôi: vậy “Tôi” chính là Đấng Mêsia của Yavê được thánh hiến cho Thiên Chúa, cho một công cuộc riêng của Người. Trong Cựu Ước có ba hạng người được xức dầu là Vua, tư tế và ngôn sứ. Đấng Mêsia đảm nhận nơi mình 3 nhiệm vụ ấy hàm ý Người nắm giữ, đảm nhận toàn bộ vận mạng của dân Chúa.
Sứ mạng: đối tượng là những hạng người cùng khốn được diễn tả qua 4 cụm từ: kẻ nghèo hèn, những tấm lòng tan nát, kẻ bị giam cầm, tù nhân. Đấng được xức dầu mang lại cho họ niềm tin yêu hy vọng ngay trong cảnh cùng khốn của họ.
Năm hồng ân là năm hiến thánh cho Thiên Chúa (Lv 25, 1-2), có thể là chu kì 7 năm (Đnl 15, 12) hoặc 50 năm (Lv 25, 10). Trong các năm đó mọi nô lệ được giải phóng, mọi nợ nần đều được tha. Năm hồng ân là một dấu chỉ của những phúc lành của Yavê.
Ngày báo phục: tức “Ngày của Yavê”, ngày Yavê đến xét xử nhân gian, ngày thịnh nộ, ngày kinh khiếp (Is 13, 9), ngày tinh luyện (Ml 3,2), nhưng cũng là ngày chiến thắng, phục hồi của Yavê, ngày Người mang đến ơn cứu độ vĩnh viễn (Is 9,3).
Tóm lại, sứ điệp Đấng Mêsia mang tới là tin vui lớn cho dân. Thời Thiên Chúa can thiệp quyết liệt đã đến rồi, thời tha thứ, ân thưởng cho dân Chúa. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Người công bố những điều nói trong sấm ngôn ứng nghiệm nơi Người (x.Mt 11, 5; Lc 4, 18-19).
-
Niềm vui của Giêrusalem trước sấm ngôn của Đấng được Yavê xức dầu (Is 61, 10-11)
-
Cội nguồn của niềm vui: “nhờ CHÚA (Kurios)”, “nhờ Thiên Chúa tôi thờ” (10ab); “CHÚA làm trổ hoa công chính”, “làm trổi vang lời ca ngợi” (11cdđ)
-
Lý do vui:
-
Được Chúa cứu độ: “mặc cho tôi hồng ân cứu độ”
-
Được Chúa làm nên công chính: “choàng cho tôi đức chính trực công minh”
-
Hình ảnh minh họa niềm vui:
-
Có cô dâu chú rể trong ngày cưới, lễ phục đẹp.
-
Đất đai trổ sinh hoa trái.
“Tôi” có thể hiểu là ngôn sứ ở phần trên theo CGKPV, cũng có thể hiểu là Đấng được xức dầu, theo TOB. Hiểu theo TOB thì Mêsia vừa là sứ giả đến từ Thiên Chúa (phần a), vừa là thành viên của Giêrusalem dân Chúa (phần b). Cách hiểu thoạt thấy có vẻ mâu thuẫn. Tuy nhiên nơi Đức Giêsu mọi sự đều sáng tỏ: Người vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Người chẳng phải là Đấng Mêsia đến loan Tin Mừng cho dân đó sao, và Người cũng đã chẳng vui mừng chúc tụng Cha khi sứ điệp Tin Mừng được đón nhận (Lc 10, 21)?
Tuy nhiên có thể hiểu phần b này là lời mà chính thành đô Giêrusalem thốt lên để ca ngợi Thiên Chúa sau khi được nghe lời sấm về vận mạng của mình (theo Targum: bản dịch diễn ý Cựu Ước bằng tiếng Do Thái cổ ra tiếng Aram, vì sau lưu đày dân Do Thái không còn hiểu tiếng Hipri nữa). Cách hiểu này được củng cố nhờ c.3 có nói tới Sion.
Nội dung chính của lời ca ngợi là NIỀM VUI. Niềm Vui bắt nguồn từ Thiên Chúa, từ việc nhận ra Thiên Chúa thương thứ tha, cứu độ và làm dân nên công chính. Ở đây hai hình ảnh truyền thống diễn tả niềm vui cao độ được sử dụng: hôn lễ, được mùa.
-
TÓM KẾT
Yavê sai Đấng Người xức dầu đến loan báo Tin Mừng cứu độ, việc giải thoát khỏi những bất hạnh cho dân Chúa đang trong cảnh khốn cùng. Trước Tin Mừng ấy dân Chúa hân hoan, biểu lộ niềm vui bằng lời ca tụng, ngợi khen Yavê. Đó là niềm vui hy vọng thời Cựu Ước.
Đến khi Đức Giêsu xuất hiện rao giảng công khai, Người đã áp dụng lời ngôn sứ Is 61, 1-2 cho mình khi công bố “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4, 18-21). Người đích thực là Đấng Xức Dầu được Cha sai đến đem Tin Mừng cho người cùng khổ khai mạc thời chung cuộc của ơn cứu độ dứt khoát.
Hôm nay các tín hữu Kitô đang mong chờ “Ngày của Yavê”, chúng ta là những đấng được xức dầu được Đấng Xức Dầu sai đi đến, trước tiên với những ai bé mọn khốn cùng và với nhân loại, loan Tin Mừng vui mừng và bình an cho một thế giới đang bị dằn vặt, lo âu, sợ hãi. Chúng ta làm trong Thần Khí của Đức Chúa, và bằng cuộc sống vui tươi phó thác của mình vì đã nhận ra Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.
TIN MỪNG: Ga 1, 6-8.19-28
Văn mạch
Tin Mừng thứ 4, mở đầu bằng một lời tựa (1, 1-18) chiêm ngắm Đức Giêsu vốn là Ngôi Lời Thiên Chúa trong vinh quang thần tính từ muôn thuở của Người. Lời tựa này có đề cập đến vai trò của Gioan Tẩy Giả, là chứng nhân được Thiên Chúa sai đến để làm chứng cho Ánh Sáng là Ngôi Lời.
Tiếp sau lời tựa là những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu. Chúng được gom lại trong một khối văn chương, trình bày trong một tuần gọi là “Tuần lễ khai mạc” trong Tin Mừng 4 (1, 19-2, 11)
Hàm ý sứ vụ Đức Giêsu là khai mở một công trình sáng tạo mới hay đúng hơn là cải tổ nhằm hoàn tất tốt đẹp công trình sáng tạo Thiên Chúa đã khởi đầu nhưng bị con người làm trục trặc. Mở đầu của tuần sáng tạo là lời chứng của Gioan về Đức Giêsu và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, Chiên Thiên Chúa; và chóp đỉnh tuần khai mạc là “Tiệc cưới Cana”, chính Đấng được Gioan giới thiệu sẽ đưa nhân loại vào nhiệm cục mới: nước hóa rượu, Rượu hoan lạc của Tiệc Cưới thay cho nước dùng để thanh tẩy.
Tin mừng hôm nay là đoạn trích ghép gồm 3 câu của lời tựa (1, 6-8) nói về vai trò chứng nhân của Gioan trong ý định từ muôn đời của Thiên Chúa; kết hợp với ngày thứ nhất của tuần khai mạc nói về sứ mạng chứng nhân của Gioan trong dòng lịch sử lúc Đức Giêsu sắp xuất hiện (1, 19-28)
Đây là niềm vui lớn cho dân, vì những gì Thiên Chúa dự tính nay đã thể hiện, đó là dấu chỉ thời Thiên Sai tới rồi.
CẤU TRÚC VÀ SUY NIỆM
-
Ý định từ muôn đời của Thiên Chúa về Gioan trong tương quan với Đức Giêsu (Ga 1, 6-8)
-
Về con người: là “người được Thiên Chúa sai đến” (6)
ông không phải là ánh sáng (8a )
-
Về sứ mạng: “làm chứng về ánh sáng” (7a; 8b)
mục đích là để mọi người nhờ ông mà tin(7b)
Phần này cho thấy sứ mạng của Gioan là sứ mạng thần linh, đã nằm trong dự tính muôn đời của Thiên Chúa. Khác với Nhất Lãm, trong Tin Mừng 4, sứ mạng của Gioan là làm chứng, nên Tin Mừng 4 không nhấn mạnh đến việc làm và lời rao giảng đọn đường của Gioan; không kể lại các chi tiết việc Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu, không kể lại lời rao giảng dọn đường kêu mời sám hối và chịu phép rửa. Tin Mừng nhấn mạnh đến chứng từ của Gioan.
Ý định của Thiên Chúa đối với Gioan rất rõ: Người sai ông đến LÀM CHỨNG về ánh sáng. Với ông Thiên Chúa bắt đầu giai đoạn “thi ân” (tên Gioan gốc Do Thái là yôkhânân, yơhôkhânân = “Thiên Chúa thi ân, thương xót”): “xuất hiện một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan”.
Mục đích của chứng từ là “để mọi người nhờ ông mà tin”. Việc nhấn mạnh “chứng từ” như là điều kiện cần thiết để tin vào Đức Giêsu là một trong những nét đặc sắc nhất của thần học Gioan (x. Concordance N.T “Témoin”). Trong thế giới Hy Lạp cổ thời “martus”= “chứng nhân” không chỉ là người chứng kiến đơn thuần, có bổn phận đưa ra bằng chứng, mà đương sự còn phải bảo đảm cho kết cục của vụ kiện mà mình đã tham dự vào (kể cả lấy sinh mạng để làm chứng, từ đó mới phát sinh ra từ martyr = “người tử đạo”).
-
Ý định Thiên Chúa được thực hiện: chứng từ của Gioan trong dòng lịch sử (Ga 1, 19-28)
Gioan xuất hiện và thực thi sứ vụ trong dòng lịch sử. Chứng từ của ông được diễn tả ra trong hai cuộc đối thoại: “Đây là LỜI CHỨNG của Gioan”.
2.1 Cuộc đối thoại 1 của Gioan liên quan đến con người của mình (19-23):
* Đối tượng: một số tư tế và Lêvi đến từ Giêrusalem
* Họ chất vấn Gioan về căn tính của ông: “Ông là ai?”; “là Elia?”; “là vị ngôn sứ?”
* Lời chứng phủ nhận: không phải là Đấng Kitô, Elia, vị ngôn sứ.
* Tiếp tục chất vấn để có gì báo cáo lại cho những người cử họ đến: “ông nói gì về chính mình?”
* Chứng từ xác nhận: “tôi là tiếng người hô trong hoang địa…” như Isaia đã loan báo.
Đối tượng của cuộc đối thoại 1 là một số tư tế và Lêvi được các quan thầy của họ cử tới. Tới không để tìm hiểu hoán cải mà để chất vấn điều tra, nắm thông tin rồi về báo cáo lại thế thôi. Cuộc chất vấn này nhắm vào căn tính của Gioan: “ông là ai?”
Đấng Kitô? tức Đấng Mêsia, Đấng được Thiên Chúa xức dầu đến thực hiện niềm mơ ước thiên sai từ bao đời của dân Chúa. Niềm ước mơ này ít nhiều bị lệch lạc, mang tính chính trị. Nhóm tư tế bận tâm vì nó trực tiếp liên quan đến vận mệnh của họ: họ có khuynh hướng thân Rôma, hưởng lợi từ những ưu đãi Rôma dành cho họ. Nếu Đấng Kitô đến giải phóng dân khỏi ách Rôma thì họ sẽ ra sao đây?
Elia? Người Do Thái tin rằng thời thiên sai được khai mở bằng sự xuất hiện của một sứ giả đi trước dọn đường cho Đấng Mêsia tới (Ml 3,1) và vị sứ giả ấy là Elia (Ml 3, 23.24). Vậy khi hỏi Gioan có phải là Elia, nhóm tư tế nghĩ rằng ông là tiền hô của Đấng Mêsia và hậu ý là điều tra xem Mêsia là ai?
Vị ngôn sứ? có mạo từ xác định, vậy ở đây ám chỉ vị ngôn sứ được nói tới trong Đnl 18,8: vị ngôn sứ vĩ đại như Môsê. Yavê đặt lời Người nơi miệng vị ấy và nó sẽ nói lại với dân mọi điều Thiên Chúa truyền.
Sau Malaki, người Do Thái cho rằng Chúa không còn nói với dân qua ngôn sứ nữa (Đn 3, 37-39; 1Mcb 9,27), như vậy Chúa im tiếng. Do đó dân ngóng chờ ngày Chúa nối lại mối tương giao với dân bằng cách lại tái gửi ngôn sứ tới. Vì vậy có ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ Thiên Chúa thứ tha, thời ân sủng khai mạc. Đó là lý do dân chúng hân hoan náo nức khi thấy Gioan xuất hiện với những nét như là một ngôn sứ. Tuy nhiên nhóm tư tế đến gặp Gioan là để hạch hỏi điều tra, tường trình chắc là nhằm đối phó sao cho tiếp tục giữ được những quyền lợi họ đanh hưởng khi Đấng Mêsia đến. Họ không bận tâm lắm đến cùng đích mà thiên Chúa muốn khi gửi Đấng Mêsia tới. Vì vậy câu trả lời của Gioan là KHÔNG!
KHÔNG! Gioan không là một trong các vị ấy theo kiểu họ hiểu, mong đợi.
Tôi là “tiếng người hô trong hoang địa…” Gioan muốn đưa họ về lại sứ điệp Tin Mừng mà Isaia 61 đã loan báo, khi xác nhận ông là tiếng hô trong hoang địa. Để nhận ra ý nghĩa việc Chúa đến trước tiên là HOÁN CẢI (x. GKPV “KT Tân Ước” 2008 trang 377 nốt x). Tuy nhiên, trong tinh thần Tin Mừng Gioan, lời xác nhận của vị tiền hô có giá trị là lời chứng: ông trực tiếp xác nhận chính “tôi là tiếng người hô trong hoang địa” (Nhất Lãm chỉ nói Gioan rao giảng: “có tiếng hô trong hoang địa…”), nghĩa là sự xuất hiện của ông là một dấu, một bằng chứng cho thời thiên sai tới rồi.
2.2 Cuộc đối thoại 2, liên quan tới phép rửa của Gioan (Ga 1,24-27)
* đối tượng: “có mấy người thuộc phái Pharisêu”.
* Chất vấn: tại sao Gioan làm phép rửa nếu ông không là….?
* Lời đáp: loan báo Đấng Thiên Sai bằng cách so sánh với bản thân mình
– xác nhận ông làm phép rửa trong nước
– có một vị đang đứng giữa các ông mà các ông không biết.
– vị đó ĐẾN SAU Gioan, nhưng ông không xứng cởi quai dép cho Người.
Nhóm Pha-ri-sêu thì chú tâm đến việc làm của Gioan; phép rửa với cách đặt vấn đề nặng tính lề luật; “tại sao làm?”, không có tư cách pháp nhân tại sao làm? Khi đặt câu hỏi, có lẽ nhóm Pharisêu nghĩ đến phép rửa thời cánh chung. Về phép rửa này, người ta tìm thấy dấu vết trong tập “Thủ bản môn đồ” của cộng đoàn Qumrân: “… và bấy giờ, Thiên Chúa với chân lý của Người, sẽ tẩy sạch từng công việc một và sẽ thanh lọc cho Mình toà nhà (tức thân thể) của mỗi người để loại trừ mọi tinh thần gian ác ra khỏi các chi thể xác thịt của nó và để thanh tẩy nó khỏi mọi hành vi vô đạo bằng Thần Khí thánh thiện của Người; Rồi Người sẽ vọt lên trên nó Thần Khí sự thật như nước rửa tội” (cột IV hàng 20-21: xem Chú giải Phúc Âm Chúa Nhật năm B Các Mùa trang 77); Đó là phép rửa trong Thần Khí Thiên Chúa. Khi khước từ mình là Kitô, Elia, vị ngôn sứ, Gioan xác nhận mình chỉ làm phép rửa trong nước thôi; còn phép rửa cách chung trong Thần Khí thì do “Đấng đang đứng giữa các ông mà các ông không biết” sẽ thực hiện. Phép rửa của Gioan chỉ là dọn đường, dục lòng dân thống hối.
Lúc đầu Gioan cũng không biết Đấng đó là ai, nhưng chính Đấng sai ông đi làm phép rửa trong nước đã mặc khải Đấng ấy cho ông (1,33).
Đến sau tôi: Khi được Thiên Chúa cho dấu chỉ giúp nhận ra Đấng Thiên sai trong đám người đến chịu phép rửa, Gioan an mới khám phá ra rằng Đấng ấy lại là một trong các môn đệ của mình. “Ôpiso môi” = “đằng sau tôi” (x. Mt 4, 19; 16, 23) nơi người Do Thái là cách diễn tả truyền thống để ám chỉ môn đệ của một rabbi. Thật vậy, trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu được trình bày như một thành viên của nhóm Tẩy Giả (3, 22 – 26; 4, 1). Tuy nhiên Gioan làm chứng: Đấng ấy vượt xa hơn ông đến nỗi được làm nô lệ cởi dép cho Người, ông cũng không xứng đáng: “Tất cả mọi công việc phục vụ mà một nô lệ làm cho chủ của y, thì một môn đệ phài làm cho thầy mình, trừ cởi dép´(x. Paroles sur le chemin, Année B, p.33). Sự tự hạ này là một chứng từ tuyệt vời của Gioan về Đấng Mêsia.)
-
TÓM KẾT: