NHỮNG ĐOẢN KHÚC CHO NGÀY CỦA CHA VN

           Trong thế gian và đời sống, hình ảnh người cha không có, hoặc không có nhiều, so với hình ảnh của người mẹ. Thi ca thế giới thường ca tụng mẹ hơn. Lý do dễ hiểu, mẹ phải mang nặng đẻ đau, và tiếp xúc gần gũi, một cách dịu dàng với con, trong khi cha thường xuyên vắng nhà vì mưu sinh cho gia đình. Khác với trong tôn giáo.

      Quả vậy, không tôn giáo nào quên, hoặc được phép quên cha. Khổng giáo và thể chế phong kiến, vốn trọng nam khinh nữ, nhắc nhiều đến cha, phụ, uy quyền chỉ sau vua, quân, và thầy, . Phật giáo hướng về Ðức Thích Ca Mâu Ni như người cha tối thượng. Thiên Chúa giáo tôn thờ Ðức Chúa Trời là cha muôn loài. Thần thoại Hy Lạp và La Mã được bao phủ bởi quyền năng của Zeus, chúa tể các thần linh.

      Còn chữ hiếu của con cái đối với riêng người cha thì vẫn tràn đầy, không thua đối với người mẹ. Người ta còn nhớ chuyện nàng Antigone trong thuyền thuyết Hy Lạp và kịch của Sophocle đã dắt cha bị mù lòa lang thang trên đường phố Colone, làm ai cũng cảm động. Thúy Kiều trong truyện của thi hào Nguyễn Du vì hiếu đã bán mình chuộc cha và từ đó, tấm thân và cuộc đời phải chịu bao nhiêu đoạn trường, hoa vùi liễu dập qua suốt mười lăm năm.

      Tại Mỹ quốc, năm 1909, cũng vì chữ hiếu đối với cha mà bà Sonora Smart Dodd, thuộc tiểu bang Washington, đã đề nghị một ngày dành cho Cha. Cha bà là William Smart, sau khi vợ –tức  mẹ bà– mất, đã ở vậy, gà trống nuôi sáu người con. Bà Dodd, khi trưởng thành, nhớ đến cha, muốn ca tụng sức mạnh tinh thần và công lao dưỡng dục của ông. Ngày 19 tháng 6 năm sau, 1910, Ngày Của Cha đầu tiên được mừng tại Spokane, tiểu bang Washington, cùng lúc với một số thành phố Mỹ khác. Nhưng phải đợi 14 năm sau, 1924, Tổng thống Coolidge mới ủng hộ ý kiến mừng Ngày Của Cha cho toàn nước Mỹ. Cuối cùng, năm 1966, Tổng thống Lyndon Johnson ký tuyên ngôn chính thức lấy ngày Chúa nhật thứ ba của tháng 6 làm Ngày Của Cha  trên toàn quốc.

      Còn Việt Nam của chúng ta thì sao?
Công cha như núi Thái sơn /  Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

      Câu ca dao ngàn đời đó còn nhắc nhở thiết tha bổn phận của con cái Việt Nam đối với mẹ cha. Khi mẹ nghĩa, là nước êm mát, bao dung, thì cha công, là núi cao, sừng sững. Hình ảnh cha uy nghi, thẳng ngay như cây tùng, cây thông trên đầu non, tượng trưng người quân tử, một mình đối diện với đời, với phong ba, bão táp, để đứng “giữa trời mà reo” như trong thơ Nguyễn Công Trứ. Công lao của người Cha Việt Nam vô lượng đất trời, không có gì sánh bằng. Trong lúc Mẹ ở nhà chăm sóc đàn con thì Cha phải ra đời làm việc, kiếm sống, vất vả ngược xuôi. Cha không than phiền, bởi Cha hiểu đó là nhiệm vụ thiêng liêng của Cha, một  trưởng gia đình, một người đàn ông, có bổn phận nuôi sống cả nhà. Buổi tối Cha đi làm về, ôm hôn từng đứa con, và dù mệt mỏi, vẫn hỏi han việc học hành, giúp con làm bài, đọc sách, tắm rửa, để Mẹ rảnh tay nấu nướng. Khi con lười biếng, hoặc không vâng lời, Cha khuyên bảo, rầy la, cũng như Mẹ đã làm những lúc vắng Cha. Khi con học giỏi, Cha khen thưởng, mua quà, đồ chơi. Cũng như Mẹ, Cha dành hết thì giờ ở nhà và tình thương bao la, vô điều kiện, tình thương đích thực cho các con. Làm sao con quên được? Rồi ngày con bắt đầu lớn khôn, Cha cùng Mẹ sắm sửa hành trang cho con vào đời bằng những kinh nghiệm bản thân. Cha cho con sự bất khuất và lòng tự trọng, sức mạnh tinh thần và sự khôn ngoan trước bao nghịch cảnh.

      Trong chiến tranh, khi quốc gia lâm nguy trước quân thù xâm lược, Cha từ biệt gia đình và chốn phồn hoa, lên đường tòng chinh, như chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt của Ðặng Trần Côn, xông pha giữa lằn tên mũi đạn, chiến đấu bảo vệ đất nước, chịu nhiều gian lao, hiểm nguy, và cái chết thường trực, cận kề. Mẹ và các con ngày đêm cầu nguyện cho Cha được trở về bình an. Một lần Cha bị thương nặng, Mẹ và các con đã khóc bao nhiêu là nước mắt.

      Và nước mắt nào còn lại để nhỏ xuống cho Cha khi những năm sau đó, vào một sáng mùa xuân kinh hoàng, đất nước phải rơi vào tay giặc thù?  Còn đớn đau nào hơn trước hình ảnh Cha nghẹn ngào, tức tưởi, cởi bỏ áo trận bạc màu phong sương, giã từ vũ khí, bất lực nhìn qua khung cửa đoàn xe tăng bạo tàn chạy ngang thành phố, nghiền nát từ đây hạnh phúc và hy vọng?  Rồi cũng như trăm ngàn đồng đội khác, Cha bị đẩy vào các trại tù “cải tạo” từ Nam ra Bắc, lê bước chân đọa đày trên tháng năm vô vọng, khổ cực, đắng cay trăm bề. Ra tù, thân xác Cha mỏi mòn, nhưng ý chí vẫn không phôi pha. Cha quyết làm lại cuộc đời. Vì Mẹ. Vì các con.

      Sang xứ người, Cha bắt đầu lại từ số không, dù sức khỏe suy yếu, dù tuổi đời chồng chất. Nhưng Cha không thở than, không tưởng tiếc dĩ vãng vàng son, không buồn phiền về thời gian tù đày –tất cả từ nay đã chôn vùi trong đáy hồn Cha. Cha đứng thẳng như cây thông trên núi Thái sơn, nhìn về phía trước, không ngần ngại làm những việc không tên, lương thấp, để nuôi gia đình, để các con đi học thành người, vì các con, như cha nói, mới là hiện tại, là tương lai, là hạnh phúc, là hy vọng của Cha. Và hạnh phúc ấy, và hy vọng ấy, Cha đã mang theo cùng với nụ cười mãn nguyện dần tắt theo giấc ngủ ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh. Các con mỗi đứa có thể không thành công, nhưng chắc chắn tất cả đều đã thành nhân, là điều Cha mong ước. Cũng nhờ công ơn trời biển của Cha.

                           Công cha như núi Thái sơn

       Ôi, còn từ ngữ nào trọn vẹn hơn để vinh danh Cha! Còn bút mực nào đẹp đẽ hơn để vẽ chân dung cao quý của Cha! Còn lời lẽ nào tha thiết hơn để cảm tạ Cha! Hôm nay, con tin Cha, và Mẹ, cũng về đây để mừng với các con Ngày Của Cha.

      Ngày mà con xin dành riêng Cho Cha, người Cha Việt Nam vô vàn yêu quý, hôm nay, cũng như mọi ngày, mãi mãi.

Portland,  tháng 6, 2011
Hiệu
đính, và gửi lại Chúa Nhật thứ ba tháng 6, 2024
Kim Thanh