Bài 1
Is 50,5-9a; Mc 8,27-35
Chủ đề: Đấng Thiên Sai (Kitô) và con đường Thập Giá.
* Is 50,5-6: YAVÊ đã mở tai tôi… Tôi không cưỡng lại…tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn.
* Mc 8,29.31: Thầy là Đấng Kitô… Con Người phải chịu đau khổ nhiều…bị giết chết.
Các trích đoạn Tin Mừng của các Chúa Nhật trước đã hé cho chúng ta thấy Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể trong thân phận một con người mang tên là GIÊSU, con bà Maria và ông Giuse, là cư dân của làng quê Nadaret. Người có quyền năng khuất phục bệnh tật, đói khát, thiên nhiên và ma quỷ nữa. Với quyền năng như thế, nếu Người chịu chiều theo ý hướng phàm nhân chắc chắn Người sẽ được tôn vương. Tuy nhiên đường lối của Chúa lại khác với ước mơ nhân loại. Phương thế mà Thiên Chúa dùng để thực hiện ơn cứu độ là THẬP GIÁ. Đức Giêsu quả thật là ĐẤNG KITÔ CỨU THẾ, nhưng là một ĐỨC KITÔ THẬP GIÁ. Lời Chúa hôm nay khẳng định dứt khoát như thế: bất kỳ ai có ý định đi ngược lại con đường Thập giá này là kẻ chống lại Thiên Chúa, là kẻ phá hoại chương trình của Thiên Chúa, là chính như Satan.
Lẽ thường, theo thói đời, hễ ai có uy thế, năng lực, nắm quyền bính trong tay thì sẽ thống trị, chèn ép kẻ khác, bắt họ phải phục vụ mình; Trái lại đối với những ai tin theo Đức Giêsu thì làm lớn phải làm người phục vụ, nếu cần phải phục vụ đến hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích cứu độ của nhưng kẻ thuộc về mình theo gương Đức Kitô (x.Mc 10,42-45).
Tuy nhiên phải lưu ý điều cốt yếu này: Thập giá theo gương Đức Ki tô không phải là ĐÍCH ĐẾN, đó chỉ là lộ trình phải đi, ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào một nơi mới mẻ. Điểm đến của Thập giá Đức Kitô là PHỤC SINH: “sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Thập giá nào mà đưa con người tới ngõ cụt, tuyệt vọng thì đó là hậu quả, án phạt của tội. Tình yêu vô địch, quyền năng cứu độ của Đức Giêsu là Người đã dùng Thập giá của Người để khai thông biến “thập giá ngõ cụt, tuyệt vọng” thành con đường dẫn tới PHỤC SINH.
Bài đọc 1 trích từ sách Isaia đệ nhị (Is 40-55), ủi an, khích lệ dân Chúa đang khốn khổ trong cảnh lưu đày hãy bình tâm lại, vui lên vì Chúa sắp can thiệp mạnh tay giải cứu dân. Phương thế chính yếu Chúa dùng để cứu dân là một nhân vật huyền bí, được sách Isaia đệ nhị gọi là “Người Tôi Trung” của Thiên Chúa và mô tả trong “bốn bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1-7; 49,1-7; 50,4-9a; 52,13 – 53,12). Bài đọc 1 trích từ bài ca thứ ba, mô tả vài nét dung mạo Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Nét chính yếu được nhấn mạnh ở đây là con đường thập giá mà Người Tôi Trung phải đảm nhận để hoàn tất sứ mệnh của Thiên Chúa đối với dân qua bản thân Người Tôi Trung. TRƯỚC TIÊN, bài một trình bày Người Tôi Trung là người nhận ra được ý định của Thiên Chúa trên cuộc đời mình: biết Thiên Chúa muốn đào tạo mình nên một ngôn sứ để dùng lời đón nhận được từ Thiên Chúa mà nâng đỡ những ai kiệt sức. Đón nhận cách đào tạo của Thiên Chúa: sáng sáng Chúa đánh thức tôi dậy, mở tai tôi, cho tôi lắng nghe Lời Chúa NHƯ MỘT MÔN ĐỆ. Nhờ đó Người Tôi Trung đủ khiêm tốn, can đảm chấp nhận đường Thập giá cho bản thân từ tinh thần đến thể xác: chịu đòn vọt, sỉ nhục, không che mặt trốn chạy… Kiên tâm, bình an, tỉnh táo… trước những vu oan, tố cáo của thù địch, vì Tin Thiên Chúa phù trợ, Tin Thiên Chúa ở cùng mình. Và kết thúc là chết oan uổng, thua thiệt mà cuộc đời như không thấy đổi thay. Thật phi lý!
Chúng ta chỉ gặp được câu đáp trong Đức Kitô: điểm tới Thập giá là PHỤC SINH. Thật vậy, trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mặc khải con đường Thập Giá chính là Đường Cứu Độ. Những nét phác họa dung mạo Người Tôi Trung báo trước những gì Thiên Chúa sẽ hoàn tất nơi Đức Kitô. Tuy nhiên, Thập giá chỉ là LỘ TRÌNH, là ngưỡng cửa phải bước qua để đi tới PHỤC SINH: “…bị giết chết VÀ sau ba ngày sẽ sống lại”. Chữ “VÀ” nhấn mạnh tính liên đới mật thiết giữa Thập Giá và Phục Sinh. Do đó, ai không muốn đường Thập giá chính là muốn hủy bỏ Phục Sinh, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại mắng Phêrô nặng lời là “SATAN, lui ra sau Thầy…”. Điều Phêrô tưởng là tốt (tức từ chối Thập Giá) không là ý Thiên Chúa. Đức Giêsu muốn ai theo làm môn đệ Người phải xác tín vào con đường Thập Giá cứu độ, bằng lời tuyên tín ĐÍCH THÂN của mình: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Sau khi chỉnh sửa Phêrô, Đức Giêsu tiếp tục đòi hỏi dứt khoát hơn nữa: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, VÁC THẬP GIÁ MÌNH mà theo”. Đó chính là Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu mang tới.
Phải vác Thập giá, vì đó là phận người tội lỗi phải chết, nhưng TIN rằng trong và nhờ Đức Giêsu, “Thập giá ngõ cụt” ấy đã thành sinh lộ đưa tới Phục Sinh. Xin cho mọi tín hữu dám noi gương Đức Giêsu dấn thân vào đường Thập Giá – Phục Sinh như một người MÔN ĐỆ TỐT.
Bài 2
“Thầy là Đấng Kitô”… Con Người phải chịu nhiều đau khổ… bị giết chết, va sau ba ngày sẽ sống lại… “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. (Mc 8,29b.31b.34b).
Lời Chúa của Chúa Nhật XXIV B hé mở một chút về con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Người thật sự là ai? Người có vị trí nào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa? Và Người đã chọn “chiến lược”, “kế sách” nào để hành động, thực thi tầm nhìn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Người và vũ trụ?
Lẽ thường theo nhãn giới phàm nhân, thì một người có địa vị như thế nào thì phải có cách biểu lộ ra bên ngoài trong cách ăn mặc, đi đứng, ứng xử… tương ứng.
Lẽ thường, tội của ai thì người đó chịu, nợ của ai thì người đó trả. Không ai phải gánh thế món nợ của người khác gây ra cả. Cha mẹ có thể tự nguyện đứng ra gánh nợ giùm cho con, nhưng không ai có quyền nhân danh luật pháp chân chính để buộc tội cha mẹ vì nợ của đứa con đã trưởng thành.
Lẽ thường trong một cuộc chiến đấu, ai cũng muốn mình là kẻ chiến thắng. Và các chiến thắng tuyệt đối nhất là đưa kẻ thù của mình vào chỗ chết.
Lẽ thường, đã chiến đấu thì phải chấp nhận hy sinh, thua thiệt… thế nhưng không ai lại chọn cái chết khổ nhục thất bại – chẳng những cho bản thân mình mà con cho cả những ai muốn theo mình nữa – làm vũ khí chủ lực của cuộc chiến, làm “hiệu kỳ” chiến thắng; Và là chiến thắng tuyệt đối.
Lẽ thường, cha mẹ dù có sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho con cái đi nữa thì cũng hy vọng rằng con cái mình sẽ được sống yên hàn, sung túc, hạnh phúc. Không cha mẹ nào hy sinh để rồi lại mời dòng họ của mình đi vào con đường khổ nạn như chính mình: “ai muốn theo tôi… hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).
Và thật là điên rồ! không ai hy sinh mạng sống mình để cứu độ kẻ thù luôn rình hãm hại mình; Và kiên trì đào tạo những “Satan” ấy thành môn đệ của mình.
Tất cả những nghịch lý ấy của con đường cứu độ. Đã đến lúc phải được mặc khải rõ ràng. Vì giai đoạn trước thời điểm Phêrô tuyên tín (Mc 8,29), Đức Giêsu đã bày tỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua lời rao giảng đầy quyền uy và qua những phép lạ đầy ấn tượng của Người và mọi người, kể cả những kẻ chống đối, phải nhìn nhận các sự kiện đó. Thế nhưng, những nét thành công ấy đã đưa đến hiểu lầm về đường lối cứu độ của Thiên Chúa. Thật vậy, người ta chờ đợi nơi Đức Giêsu một nhà pháp thuật thần thông vĩ đại, chỉ cần một lời nói của Người là giải quyết được mọi vấn đề mà đám đông đang chờ đợi. Không ai thấy cơn cám dỗ chết người đang rình rập; không ai ngờ được rằng Satan đang có mặt và mọi người đang bị Nó giựt dây kể cả Phêrô: Đấng Thiên Sai đến để thỏa mãn những nhu cầu vật chất thấp hèn của kiếp người tội lỗi (giải quyết một cách dễ dàng cái ăn, cái bệnh tật, cái khát vọng thống trị kẻ khác), chứ không phải để hướng dẫn con người từ bỏ những thứ đó để đi theo Người thực hiện Ý Thiên Chúa. Cuộc thất bại của Adam và Eva trong Địa Đàng có nguy cơ lặp lại; Con Rắn đang rình để tung ra một “đòn trí mạng” đã từng hạ gục Adam. Và lần này kẻ trúng đòn là Phêrô. May thay, “Adam mới” đã không bị lôi cuốn. Đức Giêsu đã vạch mặt và đạp dập đầu “Con Rắn Phêrô”: “Satan, lui lại đàng sau Thầy” nhưng không để hủy diệt, đuổi đi mà mời ông đi theo Người bước vào tầm nhìn của Thiên Chúa “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người” (8,33).
Đường cứu độ là đường Thập Giá chứ không là đường phép lạ. Sau lời tuyên tín của Phêrô, Đức Giêsu chỉ còn làm hai phép lạ:
-
Chữa em bé bị quỷ ám sau biến cố Hiển Dung (9,14-29)
-
Chữa người mù tại Giêricô trước khi tiến vào Giêrusalem (10,46-52)
Qua hai phép lạ cuối cùng này, Đức Giêsu muốn dạy cho môn đệ: quyền năng thần linh đã được trao ban cho con người qua CẦU NGUYỆN (9,29) và ĐỨC TIN (10,52).
Chính yếu của mặc khải sau tuyên tín là ĐƯỜNG THẬP GIÁ: ba lần mặc khải Thập Giá đều gặp những phản ứng lại sai lầm của đoàn môn đệ và Đức Giêsu lại phải khổ công điều chỉnh, trước khi đưa các ông vào Giêrusalem đón nhận Thập Giá.
Mở đầu phần điều chỉnh của Đức Giêsu trước sai lầm của Phêrô là một lời sửa dạy nặng nề: gọi Phêrô là “Satan”. Quá bất ngờ! Nhưng đó là sự thật. Điều quan trọng không là thiện chí của con người mà là TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA.
Con đường Thập Giá cứu độ không là tư tưởng riêng của Đức Giêsu. Đó là ý Cha và từ từ được mặc khải dần trong dòng lịch sử. Bài đọc một hôm nay là một hé mở con đường Thập Giá cứu độ của Chúa Cha.
Bài đọc 1: Is 50,5-9a
Bài đọc một trích từ Sách Isaia đệ nhị (Is 40-55), được soạn vào cuối thời lưu đày, cho một môn đệ của trường phái Isaia, nhằm khơi dậy niềm tin và hi vọng của dân Chúa: thời điểm Chúa tha thứ, giải cứu sắp tới rồi. Đấng Cứu Tinh là một nhân vật huyền bí được gọi là NGƯỜI TÔI TRUNG. Dung mạo của vị này được Isaia đệ nhị diễn đạt qua bốn “bài ca về NGƯỜI TÔI TRUNG”: Is 42,1-7; 49,1-7; 50,4-9a; 52,13-53,12. Bài đọc 1 là trích đoạn từ bài ca số 3, nói về NGƯỜI TÔI TRUNG đã can đảm đơn nhận đường lối lạ lùng của Thiên Chúa nơi bản thân mình trong tư tưởng phó thác để cứu độ dân.
* Adonay Yavê đã mở tai tôi (c.5):
“Yavê” là tên Thiên Chúa mặc khải cho Môsê để dân dùng danh đó mà kêu cầu cùng Thiên Chúa cho đến muôn đời (Xh 3,15). Đối với Israel, Yavê là Thiên Chúa duy nhất, họ không được thờ thần nào khác. Đó là niềm tin trước thời lưu đày. Đến lưu đày, niềm tin độc thần xác định rõ hơn: không có thần linh nào cả, chỉ một mình Yavê Thiên Chúa là thần linh. Do đó vào thời lưu đày trở đi xuất hiện cách gọi “Adonay Yavê” để diễn tả niềm tin đỉnh cao Thiên Chúa độc thần, Yavê là Thiên Chúa duy nhất.
Thật vậy, trước lưu đày, danh xưng “Adonay” rất ít gặp được sử dụng cho Thiên Chúa; Nhưng đến thời lưu đày, các ngôn sứ dùng nó đi kèm với tên “Yavê” để cảnh cáo dân đừng chạy theo các thần dân ngoại nhất là khi họ bị mặc cảm về mặt quan điểm tôn giáo thời đó: họ thua trận, vậy thần Yavê yếu hơn các thần dân ngoại. Các ngôn sứ phải vực dậy lòng tin, và danh xưng kép “Adonay – Yavê” được sử dụng thường xuyên (Is 48,16; 49,22; 52,4; 61,1; Ed 13,3c.13.16.18.20; 14,4.6.11; 23,22.28.32.34.46; 24,6.14.21…).
Về mặt dịch thuật, linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch “Adonay Yavê” cũng là tên Thiên Chúa dùng để ký kết Giao Ước Sinai với Israel (Xh 19,7-24): “Ta là Yavê Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 20,2; Đnl 5,6). “Adonay Yavê” = “Đức Chúa Yavê”; Còn nhóm CGKPV dịch “Adonay” là “Chúa Thượng” còn “Yavê” là “ĐỨC CHÚA”.
* Đọc thêm c.4, ta thấy Thiên Chúa có một dự tính đối với NGƯỜI TÔI TRUNG (xem trong bài Chủ đề”. Bài ca số ba về NGƯỜI TÔI TRUNG này dùng từ “Adonay Yavê” đến bốn lần: 50,4.5.7.9 là muốn nhấn mạnh rằng đường lối lạ lùng này là độc đáo chỉ có Thiên Chúa duy nhất mới hành động như thế. Vậy “đường Thập Giá cứu độ” không là một đường lối bệnh hoạn của loài người, cũng không là sáng kiến của Đức Giêsu, mà là dự tính thần linh của vị Thiên Chúa Yavê duy nhất.
* NGƯỜI TÔI TRUNG dám đón nhận mọi khổ đau thể xác lẫn tinh thần là vì xác tín rằng Adonay Yavê phù trợ mình (cc 6-7); quả quyết rằng Adonay Yavê đứng về phía mình, ở bên mình, tuyên bố mình công chính (cc.8-9a).
Vậy đường Thập Giá, chủ yếu không nằm ở các tiểu tiết khổ đau, hành hạ, chết chóc mà nằm ở xác tín nội tâm: đó là đường lối của Thiên Chúa. Nên trong Tin Mừng, Đức Giêsu không mắng Phêrô vì ông nhát đảm hoặc chỉ biết tìm an toàn mà Người trách ông “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mc 8,33b).
Vậy Thập Giá là chọn theo Ý Cha chứ không chọn theo “ý con”. Và mỗi lần làm theo “ý con” là khước từ Thập Giá là biến mình thành cánh tay nối dài của Satan.
Ý Cha là muốn đào tạo NGƯỜI TÔI TRUNG thành môn đệ; Ý Đức Giêsu là muốn Phêrô phải “lui lại đàng sau Thầy”. Trở thành môn đệ là công việc kiên trì, mối ngày:
-
Phải đón nhận đường lối Chúa trên đời mình.
-
Phải chấp nhận để Thiên Chúa đào tạo: sáng sáng Chúa đánh thức tôi.
-
Phải để Chúa mở tai, lắng nghe Lời Chúa như một môn đệ.
-
Không lùi bước trước những khó khăn.
-
Phải trở thành nơi cậy dựa cho những ai yếu đau kiệt sức.
-
Xác tín rằng sự công chính của tôi là ở nơi Thiên Chúa.
TIN MỪNG: Mc 8,27-35
Với bài giảng thứ hai (Mc 7,1-23), Đức Giêsu đã loại bỏ đi những bất cập của luật sạch dơ, dọn đường cho công trình nối kết Do Thái và dân ngoại thành một, Đức Giêsu đã tiến vào vùng đất dân ngoại, và ở đó, Người cũng đã thi ân giáng phúc cho dân ngoại, tất cả những gì Người đã làm cho dân Do Thái (ba cặp phép lạ đối xứng nhau qua điểm trung tâm là bài giảng thứ hai) (Mc 7,24-8,10).
Trong tương quan với đoàn môn đệ, Đức Giêsu muốn tìm nơi an bình thoát mọi náo động thường ngày để đào tạo thêm cho các ông, nhưng chưa được (7,24). Qua các biến cố (dù đã được Đức Giêsu sai đi thực tập và đã thành công: 6,7-13) các ông dường như chưa hiểu gì về giáo lý của Đức Giêsu (8,14-21). Tình trạng trì trệ đến độ Người phải nặng lời mắng các ông “ngu muội” (8,17). Nếu tình trạng này không khắc phục được thì khó lòng tỏ bày trọn vẹn căn tính Kitô của Người và bày tỏ con đường Thập Giá. Cần phải can thiệp mạnh để “mở mắt” cho các ông. Lần này để đạt được mục đích tĩnh lặng cần thiết, Đức Giêsu đã đưa các ông đi xa tít khỏi đất Do Thái, đến tận Xêdarê Philipphê. Dọc đường, Người đã chữa lành cho anh mù (8,22-26: bản văn này là riêng của Marcô). Phép lạ này đối với Marcô như là chuẩn bị “mở mắt” tâm hồn cho môn đệ giúp họ nhận ra Đức Giêsu là Kitô. Ngay sau phép lạ này, Marcô thuật lại trình thuật nói về cuộc tuyên tín của Phêrô, cũng như lần đầu công khai chính thức loan báo về Thập Giá. Đây là bài học Tin Mừng XXIV B của phụng vụ.
-
Đức Giêsu tỏ mình là “Kitô” cho đoàn môn đệ (8,27-30)
* Xêdarê Philipphê: vùng đất dân ngoại nằm ở cực bắc Palestin, thuộc quyền quận vương Philipphê (con của vua Hêrôđê Cả với bà Cléopâtre người Giêrusalem). Chỉ khi thoát khỏi “men của Hêrôđê và men Pharisêu”, không còn bị khống chế bởi những rào cản bất cập Luật Do Thái và được Đức Giêsu “mở mắt” thì đoàn môn đệ mới đủ tự do nhận ra căn tính của Đức Giêsu.
* Anh em bảo Thầy là ai? Đây là vấn đề cốt lõi của đức tin Kitô giáo và đặc biệt là của Tin Mừng Marcô (Mc 1,1). Đây không phải là nổ lực tìm tòi của nhân loại mà là sáng kiến, một mặc khải của Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã cố gắng từng bước một dẫn đoàn môn đệ vào một tiến trình đào tạo đặc biệt, để khi đến lúc thì có thể tuyên tín: – chọn riêng, cho ở chung với Người để được Người sai đi (3,14); cho các ông tham gia hết mình vào các hoạt động của Người (3,20); Người dạy dỗ thêm, riêng cho các ông (4,10-12); Người tập dần các ông hoạt động độc lập (6,7-13); Người dạy các ông đời sống nội tâm: tìm nơi thanh vắng, nghỉ ngơi đôi chút (6,31); Người cảnh cáo các ông coi chừng men Hêrêđê, men Pharisêu (8,14-21); Người đưa họ ra khỏi vùng khống chế của tầm ảnh hưởng Do Thái (8,27a); Người chủ động từng bước đặt vấn nạn đưa các ông vào huyền nhiệm của Người (8,27b).
Thiên hạ nói gì về Người? Chắc chắn là Người biết rõ dư luận thiên hạ nói gì về Người và Người không bận tâm đến điều đó. Vấn đề làm cho Người thao thức là các môn đệ được Người tuyển chọn từ đầu, đã theo Người từng bước, mỗi ngày, họ nói gì về Người.
* Thầy là Đức Kitô: “Kitô” = Kristos (hi lạp) = Mêsia (Do Thái). Nghĩa đen của từ Mêsia là “được xức dầu”. Người được xức dầu là người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm các công việc của Người. Trong Kinh Thánh, những người được xức dầu là “vua” (1Sm 16,1-13; 24,7); là “tư tế” (Xh 28,41; 40,13-15), là “ngôn sứ” (1V 19,16b). Thực tế, trong suốt Cựu Ước không thấy có ngôn sứ nào được xức dầu tấn phong để đi làm sứ mạng ngôn sứ cả.
Vua, tư tế, ngôn sứ là các thể chế do Thiên Chúa thiết đặt để thay mặt Chúa lãnh đạo dân (x. Đnl 17,14 – 18,22). Tùy giai đoạn lịch sử của dân mà một trong ba vai trò trên sẽ nổi bật hơn. “Đấng được xức dầu” lẽ ra phải làm theo ý Chúa; Nhưng trong thực tế của dòng lịch sử dân Chúa: vua đã bất trung, tư tế coi thường Thiên Chúa (Ml 1,6-14), ngôn sứ cũng chẳng ra hồn (Mk 3,5; Gr 23,13). Tóm lại tất cả đều hư đốn (Gr 2,8), hậu quả là dân bị phân tán, lưu đày…Niềm hy vọng về một đấng Mêsia trần thế, đấng ấy sẽ làm rạng rỡ danh Chúa, sẽ tạo phúc cho dân, đã bị phá sản. Kinh Thánh hướng về một Đấng Mêsia cánh chung với dung mạo huyền bí được phác họa trong ba bài nói về Đấng Emmanuel trong Is 7,14-17; 9,1-6; 11,1-9 bốn bài nói về Người Tôi Trung trong Is 40-55. Tuy nhiên Isaia không gán cho nhân vật đó danh xưng “Mêsia” (ĐN TH TK “Massia”).
Từ đó, người Do Thái mong đợi Đấng Mêsia cánh chung. Qua lời tuyên tín của Phêrô, Marcô khẳng định rằng Đấng đó chính là Đức Giêsu lịch sử. Toàn bộ sự mong đợi của Cựu Ước đã được đáp trả rồi nơi một người phàm mang tên Giêsu, nơi Người Thiên Chúa hoàn tất ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng (Mc 1,1).
Như vậy căn tính thần linh của Đức Giêsu đã dần được bày tỏ. Thế nhưng bằng phương thức nào, Đức Giêsu thi hành và hoàn tất sứ mạng thần linh?
-
Nhưng đó là Đức Kitô thập giá và phục sinh (8,31-33)
* Phần thứ hai của bài đọc Tin Mừng được mở đầu bằng lời loan báo Thập Giá và Phục Sinh. Mc 8,31 mô tả Thập Giá Đức Giêsu bằng những hình ảnh gợi lại những hậu quả khốc hại của tội nguyên tổ:
-
“chịu đau khổ nhiều” gợi lại St 3,16-19.
-
“bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ” gợi lại St 3,12: con người chối từ nhau, coi nhau như kẻ thù, không còn là “xương tôi, thịt tôi” nữa.
-
Sau cùng là “chết” so với St 3,19b.
May thay Thiên Chúa nhập cuộc, nhân loại hồi sinh. Nhưng Thiên Chúa nhập cuộc trọn vẹn bằng con đường làm người. Chính con người thắng ma quỷ (St 3,15).
* “Con Người” phải chịu… (8,31).
Marcô không nói “Đức Giêsu” hoặc “Đấng Mêsia” hoặc “Con Thiên Chúa” chịu đau khổ…mà nói “Con Người”. “Con Người” là “Adam” (tiếng Hipri), là “anthrôpos” (tiếng hi lạp) chính là nhân loại là sinh vật cao cấp nhất, hữu hình mà Thiên Chúa dựng nên (St 1,26.27). Như vậy Đức Giêsu đã làm tròn ý Cha. Người đã chiến thắng ma quỉ bằng thân phận “con người” nhưng là “con người hình ảnh của Thiên Chúa”, chứ không phải là “con người dại dột, cánh tay nối dài của Con Rắn”.
* Phản ứng của Phêrô (8,32b)
“Phêrô kéo riêng Người ra”: ông muốn tách Đức Giêsu ra khỏi lộ trình của Cha. Thay vì chấp nhận thân phận chung của nhân loại đã sa ngã, theo ý Cha, để được Cha hồi phục, thì ông lại muốn đi con đường riêng, không dám đương đầu với khổ đau chiến đấu, muốn trốn chạy Thập Giá.
Ông đúng là cánh tay nối dài của Satan, giống như Eva đối với Adam; Ông muốn chiếm đoạt vị trí làm thầy của Đức Giêsu. May thay, Đức Giêsu đã không đồng lõa như Adam. Nhờ đó Phêrô được cứu, đoàn môn đệ được cứu (8,33) và cả đám đông, tức nhân loại cũng được cứu (8,34).
* Phản ứng của Đức Giêsu (8,33)
Kiên vững trong dự tính của Thiên Chúa. Vạch mặt Satan: cơn cám dỗ ở Vườn Địa Đàng luôn rình rập con người và mưu mô của Rắn ngày càng thâm độc, xảo quyệt: ngay trước mặt Đức Giêsu, Rắn cũng dám giựt “vị giáo hoàng” của Chúa ra khỏi tay Người. Rắn đã là bại tướng trước Con Người nhưng Rắn có thể đánh bại môn đệ của Con Người. Đức Giêsu đã vạch mặt Satan và hồi phục Phêrô về lại vị trí làm môn đệ. Tội của Phêrô rất nặng biến Phêrô từ vị thế môn đệ thủ lãnh (x. Mt 16,17-19) trở thành kẻ đối thủ không đội trời chung với Đức Giêsu: Satan. May là Đức Giêsu đã thương, đưa ông về lại vị trí môn đệ: “lui lại đàng sau Thầy”.
-
Đường Thập Giá cũng là lộ trình của MỌI người môn đệ Đức Giêsu (8,34-35):
-
“Ai muốn theo tôi” tức là muốn làm môn đệ: đi cùng một con đường với Thầy, cùng chung số phận với Thầy (x.Mc 13,9-13; Mt 10,24-25).
-
“Phải” hàm ý bắt buộc, không miễn chuẩn được.
-
“Từ bỏ mình”: “MÌNH” ở đây là cái tôi đã bị Satan và sự dữ khống chế. Phải từ bỏ cái “mình” này cùng các khuynh hướng xấu của nó. Đó là lời Đức Giêsu mời gọi ĐÁM ĐÔNG và CÁC MÔN ĐỆ (8,34).
-
“Vác Thập Giá mình mà theo”: như đã suy niệm trên, Thập Giá đã nằm trong dự tính từ ngàn đời của Thiên Chúa, khi Thiên Chúa dám ban tặng trọn vẹn tự do cho con người.
Có thể nói Thập Giá là “sáng kiến” của chính Thiên Chúa. Gọi đó là “sáng kiến” là vì “đau khổ” và “sự chết” không có tên trong danh mục những gì Chúa tạo dựng nên trong công trình sáng tạo. Thế nhưng khi con người lạm dụng tự do, làm xáo trộn qui luật sáng tạo, thì xuất hiện sự kiện tạm so sánh với việc “đột biến gen”: từ trong sự an bình của sáng tạo, con người đã làm “đột biến” thành các “gen nguyên tội”. May thay, Thiên Chúa, Đấng làm chủ mọi qui luật “gen” đã xuất hiện kịp thời ban lời hứa chữa trị cho con người. Tình Yêu, Quyền Năng Thiên Chúa tận dụng luôn những tác hại của “gen nguyên tội” để giáo dục và cứu nhân loại. Và đó cũng là cách Thiên Chúa dùng để tiêu diệt sự chết: Thiên Chúa biến “gen” đột biến, phá hoại, hủy diệt của nguyên tội, của sự chết, trở thành “dược liệu” thức tỉnh nhân loại khỏi “cơn dịch” hôn mê, nhận ra những sai lầm của mình, đưa nhân loại về lại lộ trình sự sống.
Với dự tính như thế của Thiên Chúa; Với Thập Giá và phục sinh của Đức Giêsu, nọc độc của sự chết, của nguyên tội đã bị vô hiệu hóa.
Sự dữ, khổ đau, sự chết vẫn còn đó, nhưng chúng không quật ngã được nhân loại nữa vì nhân loại đã có “vắc-xin Thập Giá Giêsu”: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Mặc khải tối hậu đó, Đức Giêsu nói cho mọi người (8,34).
TÌM HIỂU 2 BÀI ĐỌC
Is 50, 5-9a.
Mc 8,27-35
Chủ điểm phụng vụ:
Ba điểm chính đan chéo vào nhau:
-
Lời Chúa Chúa Nhật 24B công khai tỏ bày cho những ai theo Đức Giêsu nhận ra được căn tính Thiên Sai của Người. Người là ĐẤNG KITÔ, tức là Đấng Mêsia của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa hứa ban cho tuyển dân vào thời Chúa định.
-
Tuy nhiên, lộ trình mà Đấng Mêsia phải đi qua, trải nghiệm đích thân để hiển lộ vinh quang thiên sai của Người lại là CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ. Thân phận khổ đau, bất hạnh của nhân loại đang bị lưu đầy xa Chúa, lại được Thiên Chúa yêu thương đảm nhận làm của Người, biến thành nên công cụ cứu độ.
Con đường này đã được Thiên Chúa tỏ lộ ngay khi hai nguyên tổ vừa phạm tội (St3, 15), rồi được chuẩn, bị hé lộ dần ngang qua thân phận đau thương của một nhân vật bị ngược đãi, được Isaia gọi là NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THIÊN CHÚA. Tất cả là để chuẩn bị cho mặc khải chung cuộc về Thập Giá Đức Giêsu.
-
Động cơ thúc đẩy người được Thiên Chúa chọn theo con đường Thập Giá là vì người đó đã được Thiên Chúa đào tạo, phù trì nên xác tín rằng “Yavê đã mở tai tôi”, Yavê tuyên bố tôi là công chính “, ” Yavê ở kề bên phù trợ tôi” (bài đọc 1)
Trong Tin Mừng, khi công bố Thập Giá, Người không dừng lại ở đó như một ngõ cụt mà là nhấn mạnh đó là ngưỡng cửa phải bước qua để bắt đầu một cuộc sống mới: Phục Sinh. Đó mới là ý định chung cuộc, là đích đến mà Thiên Chúa đã mời Đức Giêsu tiến tới. Vì thế Đức Giêsu thờ lạy ý Cha và dự tính của Cha được hoàn tất.
Vậy Thập Giá mà Lời Chúa hôm này tôn vinh không phải là án phạt của phận phàm nhân tội lỗi, nhưng là, NHỜ Đức Giêsu, đã trở nên NGƯỠNG CỬA mở ra cho tất cả những ai tin vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, dám vác Thập Giá mình mà theo Đức Giêsu.
Bài đọc 1 trích từ sách Isaia đệ nhị (Is 40-55). Đó là bài thứ ba trong loạt bốn bài nói về Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Được Yavê đào tạo, mở tai, Người này sẽ dũng cảm dùng chính sự khổ đau, bị bách hại của mình để cứu dân Chúa. Mầu Nhiệm Thập Giá được bài đọc 1 mô tả qua dung mạo tang thương của Người Tôi Trung với những cụm từ “bị đánh đòn”, “bị giật râu”; “bị mắng nhuốc”. Nhưng Người Tôi Trung vẫn can đảm, tự nguyện đảm nhận các ngược đãi bất công ấy mà không tháo lui, không cưỡng lại.
Động lực giúp Người Tôi Trung dám làm thế là vì xác tín rằng có Yavê phù trợ, có Yavê ở kề bên và công bố Người Tôi Trung là công chính. Được Yavê mở tai, Người Tôi Trung nhận ra rằng đó là đường lối của Thiên Chúa, nên dám chấp nhận, sẵn sàng đương đầu với mọi bất công để dự tính của Yavê được thể hiện.
Trong bài đọc Tin Mừng, lần đầu Đức Giêsu trực tiếp mặc khải mầu nhiệm Thập Giá. Khung cảnh của cuộc tỏ mình là lời tuyên tín của Phêrô khi Người hỏi các môn đệ “anh em bảo Thầy là ai?” – “Thầy là Đấng Kitô” – Nhưng ngay lập tức sau đó, Người mặc khải Thập Giá và Phục Sinh; Tiếc thay các môn đệ chỉ giữ lại trong trí phần Thập Giá “Con Người phải chịu đau khổ nhiều… bị loại bỏ, bị giết chết”. Nên Phêrô đã ngăn cản và bị Đức Giêsu mắng nặng nề là Satan. Cơn cám dỗ “Vườn Êden “lặp lại, nhưng may mắn cho nhân loại, lần này “Ađam mới” đã chiến thắng.
Và trong ý định của Thiên Chúa, đường Thập Giá không là dành riêng cho Đấng Mêsia, mà còn là lời mời cho tất cả những ai tin Đức Giêsu và muốn đi theo Người. “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chín mình, vác Thập Giá mình mà theo”.
BÀI ĐỌC I: Is 50, 5-9a
Văn mạch
Trích đoạn này thuộc Is đệ nhị (chương 40-55). Nội dung: mời dân Chúa đang lưu đày hãy vui lên vì Chúa sắp giải cứu. Việc giải cứu này sẽ được thực hiện bởi một nhân vật huyền bí, được mệnh danh là “NGƯỜI TÔI TRUNG của Yavê”. Dung mạo người này được phác hoạ qua “4 bài ca về NGƯỜI TÔI TRUNG” (42, 1-7; 49, 1-7; 50, 4-9a; 52, 13-53, 12). Trích đoạn phụng vụ nằm trong bài ca 3, thuộc chương 50. Cấu trúc của Is 50, 1-11:
– 50, 1-3: nghiêm khắc vạch tội của Israel và giải thích cho thấy ý nghĩa của án phạt lưu đày. Trong lúc lưu đày, Israel vẫn chưa chịu nhận ra các sai quấy của mình, lại còn trách Thiên Chúa ruồng bỏ. Các câu này là lời Thiên Chúa đáp lại cho những kẻ không tin vào quyền năng của Người bằng cách nhắc lại những kỳ công thời xuất hành. Điều này hàm ý Chúa sẽ ra tay cứu độ (c. 2a); Phần dân phải lo hoán cải để khi Chúa đến gọi mời thì mau mắn đáp lời, ra đón nhận ơn cứu độ.
– 50, 4-11: Thiên Chúa mặc khải cách thức Người cứu độ: tác nhân Thiên Chúa dùng để thực hiện ơn cứu độ là NGƯỜI TÔI TRUNG, và con đường cứu độ là Thập giá (4-9a); Phần dân, phải nghe theo lời NGƯỜI TÔI TRUNG (10), ai chống lại NGƯỜI TÔI TRUNG sẽ bị hư vong (9b .11).
Bài đọc 1 là phần nói về NGƯỜI TÔI TRUNG đã can đảm đón nhận con đường đau khổ của Thiên Chúa nơi bản thân mình trong tin tưởng, phó thác để cứu dân.
CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH
-
NGƯỜI TÔI TRUNG trong dự tính của Thiên Chúa (Is 50, 4-5)
-
Dự tính của YAVÊ – Adonay: cho NGƯỜI TÔI TRUNG nói năng như một người môn đệ (4a)
-
Mục đích: để NGƯỜI TÔI TRUNG dùng lời nâng đỡ ai kiệt sức (4b)
-
Cách thức: mỗi sáng NGƯỜI đánh thức (NGƯỜI TÔI TRUNG) (4C)
để nghe lời NGƯỜI như người môn đệ (4d)
Các câu 4a – 4b, bản văn phụng vụ không dùng, nhưng cần thiết đưa vào đây để có văn mạch giúp hiểu phần phụng vụ trích đọc.
-
Cách thức YAVÊ – Adonay đào tạo NGƯỜI TÔI TRUNG: Mở tai (5a)
-
Đáp trả của NGƯỜI TÔI TRUNG: không cưỡng lại, chẳng tháo lui (5b)
Yavê muốn đào tạo NGƯỜI TÔI TRUNG thành một ngôn sứ: “nói năng như một người môn đệ”, nghĩa là nói lại cách trung thực những gì mà “sáng sáng Yavê đánh thức tôi để tôi lắng nghe một người môn đệ”; Để rồi khi cần, NGƯỜI TÔI TRUNG biết lựa lời mà nâng đỡ kẻ yếu nhọc, kiệt sức.
“Mở tai”: là để nghe được cách trung thực các sứ điệp thần linh, nghĩa là chấp nhận để cho Chúa dạy dỗ mình, sẵn sàng làm môn đệ Chúa. Cụ thể là chấp nhận đường lối lạ thường của Thiên Chúa đối với mình, con đường thập giá được mô tả trong các câu 6-9; không cưỡng lại, chẳng tháo lui. Được vậy là nhờ được Thiên Chúa đào tạo mỗi ngày biết nghe hiểu Lời Chúa trong tư thế là môn đệ (c.4); và nhờ ý thức được sứ mạng ngôn sứ của mình đối với dân (4b)
Thái độ của Đức Giêsu và của Phêrô, trong Tin Mừng hôm nay, trước mặc khải thập giá của Đức Giêsu là một minh hoạ cho điều nói trên: Đức Giêsu đã đi vào ý định của Thiên Chúa nên con đường Thập giá là đương nhiên đối với Người; Còn Phêrô vì chưa đi vào ý Chúa nên đã trốn chạy và xúi Đức Giêsu đừng đi đường thập giá, và Đức Giêsu đã nâng đỡ Phêrô bằng lời mắng: “Lui lại sau Ta” nghĩa là về lại vị trí là môn đệ Chúa.
-
Niềm cậy tin phó thác của Người Tôi Trung đối với Thiên Chúa: Yavê phù trợ tôi (Is 50,6-9a)
2.1. Trước những khổ đau, xúc phạm: đánh đòn, giật râu, bị mắng nhiếc…
Thái độ Người Tôi Trung: bên ngoài sẵn sàng đón nhận: đưa lưng, giơ má, không che mặt, bên trong: không hổ thẹn, trơ mặt.
Nguyên nhân: Tin YAVÊ – Adonay phù trợ mình (cc. 6.7)
Giật râu: trong tư tưởng Phương Đông, đây là cách đối xử sỉ nhục nhất (2Sm 10,4). Câu 6 nói đến những hành hạ, sỉ nhục mà đối thủ gây cho Người Tôi Trung. Điều lạ là Người Tôi Trung dường như TỰ NGUYỆN chịu đựng tất cả: đưa lưng, giơ má, không che mặt. Về mặt tâm lý: Người Tôi Trung không hổ thẹn, trơ mặt ra như đá. Tại sao không kháng cự?
Đó là số phận của ngôn sứ khi phải nói sứ điệp của Chúa cho những kẻ cứng lòng (Gr 20,1-18); mà kẻ cứng lòng ấy đâu ai xa lạ mà chính là dân mình, dân mà mình hằng cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho họ (Gr 7,16; 1,14; 14,11). Không thể dùng bạo lực diệt họ. Cam chịu mọi sự, mong họ đổi lòng mà được cứu: sứ mạng ngôn sứ là dùng lời để nâng đỡ dân. Đó là đường lối Thiên Chúa đã đào tạo ngôn sứ (Is 50,4).
Như vậy, chính vì tin vào đường lối của Thiên Chúa nhờ “sáng sáng Người đánh thức tôi, để tôi lắng nghe như một môn đệ” –, tin rằng “có YAVÊ – Adonay phù trợ tôi” mà Người Tôi Trung dám đón nhận tất cả một cách ý thức, bình thản, tự nguyện.
Những hình ảnh này báo trước cuộc thương khó của Đức Giêsu và tâm tình tự nguyện của Người.
2.2 Trước những kiện tụng, tố cáo (cc. 8-9a)
-
Dám thách thức đối thủ: Ai tranh tụng với tôi?… ai muốn kiện cáo? … Ai còn dám kết tội?
-
Vì xác tín Yavê – Adonay phù trợ, đứng về phe mình: Yavê ở bên tôi, tuyên bố tôi công chính.
Thấy bạo lực không làm cho Người Tôi Trung nao núng, các đối thủ chuyển sang khủng bố tinh thần: tố cáo, vu oan, cô lập, tìm cách loại trừ người của Chúa. Cuộc đời của Giêrêmia là một minh họa khá rõ cho điều nói trên (x. Gr 20, 10): vì yêu quê hương, đất nước nên Giêrêmia phải nói lên sự thật (Gr 38, 14 – 28) để rồi bị đồng bào kết án là phản quốc gây xáo trộn lòng dân (Gr 38, 4). Trước các khủng bố ấy, Giêrêmia vẫn không chùn bước vì xác tín rằng Thiên Chúa ở với ông, phù trợ ông (Gr 20, 11). Thế nhưng rồi trong thực tế, cuối cùng Giêrêmia cũng bị nhóm chống đối kéo qua Ai Cập và có lẽ ông đã bị hại chết ở đó (x. CGKPV Các sách ngôn sứ trang 223 – 224). Vậy vấn đề là:
Chúa bênh vực, phù trợ Người Tôi Trung như thế nào? Cái mà Chúa bảo vệ cho Người Tôi Trung chính là lập trường luôn chọn Chúa, chọn đường lối của Chúa cho dù thực tế có phủ phàng đến đâu đi nữa, nói cách khác là ý định cứu độ của Thiên Chúa chắc chắn hoàn tất cách tốt đẹp, trọn vẹn với Người Tôi Trung. Tuy nhiên để tiếp cận phần nào với thực tế ấy cần nhìn vào Thập giá và phục sinh của Đức Giêsu:
– Đức Giêsu bị đánh đập, hành hạ, sỉ nhục (Mt 26, 67; 27, 30); – bị điệu ra tòa, bị tố cáo, bị vu oan (rõ nhất là trong Tin Mừng Ga: 3 lần tố cáo, bịa ra 3 tội khác nhau 18, 30; 19, 4; 19, 12b) mặc dù cả 3 lần Philatô đều thấy Chúa vô tội và muốn tha 18, 38b; 19, 4; 19, 12a). Trước những mưu đồ, ác tâm ấy, Đức Giêsu cũng sợ đến đổ mồ hôi máu (Lc 22,44); Cũng nài xin Cha được khỏi uống chén thập giá (Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42); dù chẳng hiểu thấu: cớ sao Cha bỏ con (Mt 27,46; Mc 15,34); Đức Giêsu vẫn phó thác tất cả cho Cha (Lc 23,46) để ý Cha được hoàn tất (Ga 19,30). Và Người chết!
Vậy việc Thiên Chúa phù trợ, nhìn nhận Người là công chính nằm ở đâu?
Thưa, Chúa đã cho Người phục sinh, ban tặng danh hiệu trên mọi danh hiệu để khi nghe tên Giêsu thì mọi vật trên trời dưới đất, trong âm phủ đều phải bái quỳ, tuyên xưng Người là Kuriôs làm vinh danh Chúa Cha (Pl 2, 9 – 11). Tóm: chỉ trong Đức Giêsu, lời sấm Isaia này mới tìm được đáp số.
Và con đường Đức Giêsu đã đi, thái độ đáp trả của Người trước ý định huyền nhiệm của Cha muốn áp dụng cho người môn đệ Đức Giêsu: đó là điều Phaolô đã nghiệm thấy (Rm 8, 33 – 39) và Đức Giêsu cũng đã báo trước trong Tin Mừng hôm nay (Mc 34 – 35).
TÓM KẾT:
Ngược lại với Israel đầy tội lỗi mà không chịu nhận tội, cứ quy trách, đổ lỗi cho Thiên Chúa, Người Tôi Trung được Chúa coi là công chính, luôn tuân phục ý Chúa trong mọi tình huống kể cả tự nguyện đảm nhận những bách hại, vì đã được Chúa đào tạo, mở tai. Hơn thế nữa, Người Tôi Trung còn hiên ngang thách thức kẻ bách hại mình vì xác tín: Chúa phù trợ tôi, ai làm chi tôi được. Việc Người Tôi Trung tự nguyện đảm nhận nơi mình mọi hậu quả tiêu cực của tội dân dù mình vô tội, là vì liên đới với dân đang được thanh luyện, sửa dạy trong lưu đày, để cứu dân; Còn đối với Chúa, Người Tôi Trung nói lên xác tín của mình vào đường lối Chúa, vào sự công minh và phù trợ của Chúa đối với mình, sẵn sàng để cho Thiên Chúa thực thi nơi mình ý định của Người.
Chính niềm tin, thái độ phó thác trong nghịch cảnh, tưởng chừng nghịch lý của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa sử dụng để thực hiện ơn cứu độ của Người cho dân. Đó là lời đáp của Thiên Chúa trước những đổ lỗi, trách móc của dân. Đó cũng là lời mời gọi cho những ai muốn làm con dân của Chúa. Lời mời gọi ấy được hiện rõ trong thái độ chấp nhận đường Thập giá của Đức Giêsu, trong tiếng mắng “Satan” với Phêrô và trong lời mời môn đệ vác thập giá mình theo Người.
TIN MỪNG: Mc 8, 27-35
Văn mạch
Mc 1,1 giới thiệu nội dung chính yếu của Tin Mừng Marcô: Đức Giêsu một con người trần thế như chúng ta chính là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Trong cả sách Tin Mừng, Maccô khai triển ý chính này:
– Trong phần thứ nhất (1,2-8,30), Marco thuật lại nhiều phép lạ (15 trình thuật về phép lạ và thêm 3 bảng tóm lược về việc Ðức Giêsu làm phép lạ: 1,32-34; 3,10-12; 6,53-56). Vậy bằng con đường biểu lộ quyền năng cứu thế (thắng quỷ, bệnh tật, cái chết…) Marco dẫn độc giả đến chóp đỉnh của quyền năng qua lời tuyên tín của Phêrô: Đức Giêsu chính là Đấng Kitô (8.22); Tuy nhiên huyền nhiệm này luôn được Maccô bảo mật (8,30) và mầu nhiệm thập giá cũng được hé mở (3,6).
– Trong phần thứ hai (8,31-16,8) chỉ còn 2 phép lạ, và căn tính thiên sai của Đức Giêsu cũng không cần dấu giếm nữa: Biến hình (9,2-4); chữa lành công khai trước đám đông cách cố ý: “Khi THẤY ĐÁM ĐÔNG TUÔN ĐẾN…” (9, 25): để cho anh mù công khai tuyên xưng Người là con Vua Đa vít mà không cấm cản (10,48). Bởi vì thập giá đã được công khai mặc khải 3 lần. Phần này được mở đầu bằng mặc khải thập giá công khai lần 1 (8,31: ngay sau tuyên tín như để tránh hiểu lầm về danh xưng “Kitô”) và kết thúc bằng Thập giá, nhưng Thập giá không là án tội mà là yếu tố mặc khải căn tính thần linh: “thấy Đức Giêsu CHẾT như vậy, viên sĩ quan Rôma tuyên tín: con Người là con Thiên Chúa” (15,39).
Tin Mừng hôm nay là bản lề của Tin Mừng Marcô: phối hợp trình thuật cuối của phần 1 (Phêrô tuyên tín) và trình thuật mở đầu của phần 2 (loan báo thập giá, phục sinh và mời gọi muôn đệ vác thập giá mình mà theo Người): Hai mặc khải trái ngược nhau hội tụ ở đây: Đức Giêsu là Mêsia: nhưng là Mêsia thập giá. Cái nhìn tổng thể này gúp ta nhận ra con đường nào đã được Đức Giêsu chọn đi để tỏ mình cho ta: đồng thời cho thấy đó cũng là con đường của chúng ta, môn đệ của Người.
CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH
-
Đức Giêsu tỏ mình là Đức Ki Tô cho muôn đệ (Mc 8, 27-30)
-
Địa điểm: Xêdarê Philipphê
-
Chuẩn bị dọc đường câu hởi gợi ý: Người ta nói Thầy là ai?
Lời đáp tập thể của các ông: Gioan tẩy giả; Elia; ngôn sứ
-
Dẫn vào huyền nhiệm thiên sai: đòi một tương quan biệt vị.
-Còn ANH EM, anh em bảo Thầy là ai?
-PHÊRÔ đáp: Thầy là Đấng Kitô!
-
Lệnh cấm của Đức Giêsu không được nới với ai.
Xêdarê Philipphê: Vùng đất dân ngoại nằm ở cực bắc Palestin, thuộc quyền quận vương Philipphê (con của Hêrôđê với bà Cléopâtre người Giêrusalem. Khác với Philipphê bị Hêrôđê Antipas giựt mất vợ là Hêrôdia. Ông này cũng là con của Hêrôđê Cả nhưng với bà Mariamne II). Cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm đều nhất trí trong điểm này.
Chỉ khi ở bên ngoài vùng đất Do Thái, thoát khỏi những tác động, thành kiến lệch lạc về con người và sứ mạng của Đấng Mêsia, thì các muôn đệ – đã được Chúa mở mắt – mới có thể tự do nhận ra căn tính thiên sai của Đức Giêsu. Thật vậy, ở cuối phần thứ nhất, người Do Thái săn tìm Đức Giêsu chỉ để hưởng phép lạ (6,55-56): còn biệt phái thì ganh tị, cay cú, hằn học, tìm chống đối (7,1-23); môn đệ cũng chẳng hơn gì dân chúng chỉ khoái phép lạ (6,13) nhưng chẳng hiểu ý nghĩa (8,14-21) đâm ra quá bận rộn vì công việc đến độ không có giờ để ăn uống, vì thế Người bảo các ông cần nghỉ ngơi (6,31). Thật ra, Người muốn tách các ông ra khỏi môi trường, bầu khí mong chờ Đấng Mêsia lệch lạc của người Do Thái. Chỉ khi ra khỏi đó và được Người mở mắt, các ông mới vượt qua được dư luận hầu tuyên xưng Đức Giêsu là KITÔ.
“Thầy là ai?” Đây là vấn đề cốt lõi của đức tin Kitô giáo và đặc biệt là của Tin Mừng Marcô (x. 1,1). Đây không phải là nỗ lực tìm tòi của nhân loại mà là một sáng kiến, một mặc khải của Đức Giêsu: Người cố ý và tìm đủ mọi cách đưa các ông tới chỗ “nghỉ ngơi đôi chút”, tách các ông ra khỏi tầm ảnh hưởng Do Thái, rồi chủ động đặt câu hỏi đưa dẫn các ông vào huyền nhiệm của Người. Chắc chắn Đức Giêsu biết rõ dư luận thiên hạ nói về Người (6,14-16); Điều đó Người không bận tâm. Vấn đề làm Người thao thức là các môn đệ được Người tuyển chọn từ đầu, theo Người từng bước mỗi ngày, nói gì về Người: “phần anh em, anh em bảo Thầy là ai?”.
Khi lặp lại dư luận nói về Đức Giêsu, cả nhóm nhao nhao đáp: “các ông đáp”; Còn với môn đệ Đức Giêsu muốn câu trả lời đích thân, biệt vị: “Phêrô đáp”, chính trong tư cách là con người mới đã được Đức Giêsu đổi tên khi chọn nhóm 12 mà Phêrô thay mặt anh em đáp lời Đức Giêsu: “Với tư cách là môn đồ được tuyển chọn, Phêrô nhận lãnh mặc khải về phẩm cách Mêsia của Đức Giêsu.” (Chú giải PA Chúa Nhật năm B, Mùa thường niên, GHHV Piô X trang 457). Chi tiết này cũng nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không phải là một khám phá do sức riêng từng cá nhân. Đó là một ân huệ được ban cho Giáo Hội và Giáo Hội thông ban lại cho chúng ta. Đức tin vừa là một gia sản, ân huệ lãnh nhận từ truyền thống vừa là một xác tín biệt vị, nghĩa là tôi lãnh nhận đức tin từ Giáo Hội và biến nó thành của cá nhân tôi, rồi sau đó trong tư cách là chi thể Giáo Hội tôi truyền nó lại cho thế hệ tương lai với tất cả niềm xác tín biệt vị của tôi.
Thầy là “Đức Kitô” = Kristos (Hilap) = Mêsia (Do Thái) xem trong bài Suy Niệm. “Tin Mừng” số 1.
-
Nhưng đó là Đức Kitô của thập giá và phục sinh (Mc 8,31-33)
-
Đức Giêsu dạy rõ ràng: Con Người phải trải qua thập giá rồi phục sinh (31-32a).
-
Ai gây ra thập giá: kỳ mục, thượng tế, kinh sư.
-
Phản ứng Phêrô: kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người (32b)
-
Điều chỉnh của Đức Giêsu.
– Trách mắng: thấy môn đệ, Người trách Phêrô “Satan lui lại đằng sau Thầy”
– Lý do trách: tư tưởng Phêrô là của con người chứ không là của Thiên Chúa. (33)
Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia! Đúng thế! Nhưng với cái nhìn hạn hẹp cục bộ của một quốc gia nhược tiểu luôn bị các đế quốc đô hộ, Israel đã mơ ước một Đấng Mêsia theo cái nhìn ích kỷ thuần chính trị trần thế. Đức Giêsu được sai đến trần gian đâu phải để thực hiện các ước vọng nhỏ nhen ấy; Người đến để thực thi ý Cha là giải cứu toàn nhân loại khỏi ách của Satan, dự tính này đã được Cha vạch ra ngay sau khi nguyên tổ sa ngã: đạp dập đầu Rắn, và phương thế Cha chọn để thực hiện dự án hồi phục vĩ đại này là con đường làm người với tất cả những hệ luỵ của một nhân loại đã bị tội, Satan thống trị.
Chính vì thế, phần 2 của Tin Mừng Marcô được mở đầu bằng lời loan báo Thập giá đi ngay sau lời tuyên tín của Phêrô, nhưng đừng quên kết cục là phục sinh. Ở đây thập giá được mô tả bằng những hình ảnh gợi lại những hậu quả khốc hại của tội sau khi 2 nguyên tổ ăn trái cấm chống lại Thiên Chúa: bị đau khổ (so St 3,16-19a); bị đồng loại loại bỏ (St 3,12: con người chối từ nhau coi nhau như kẻ thù, không còn là xương thịt của tôi nữa); sau cùng là chết (St 3,19b). May thay Thiên Chúa còn thương, hứa cứu con người bằng con đường làm người giúp nhân loại thắng ngược lại Satan (St 3,15).
Tác nhân chính của thập giá cứu độ: đọc thoáng qua bản văn, ta tưởng rằng chính các thủ lãnh do thái là tác nhân gây nên thập giá. Thật ra thập giá của họ gây ra cho Đức Giêsu chỉ là hậu quả của hận thù ganh tị bắt nguồn từ thuở xa xưa lên tận thời sáng thế (Satan là chúa ganh tị, dối trá, xuyên tạc. Tội đầu tiên là của Satan: ganh tị với con người rồi đưa tới xuyên tạc ý Chúa để lừa đảo con người. Tiếc thay nguyên tổ đã nghe theo). Đó là những hậu quả của tội.
Thế nhưng Thiên Chúa đã đảm nhận tất cả những tiêu cực ấy làm của Người và dùng chính chúng đạp dập đầu Rắn. Chính phản ứng của Phêrô (nhìn thập giá dưới góc cạnh tiêu cực nên sợ, muốn trốn chạy) và lời mắng của Đức Giêsu giúp ta nhận ra rằng tác nhân chính của thập giá là Ý CHA. Nhưng chính lúc này thập giá biến nên thập giá cứu độ: ngày thứ ba, Người sống lại. Gậy ông đập lưng ông: vì ganh tị, Satan đã gây ra thập giá khổ đau, loại trừ, chết chóc cho con người, nhưng rồi Đức Giêsu với tư cách con người đã đảm nhận toàn bộ cái thập giá ấy và biến nợ thành thập giá cứu độ: phục sinh. Và Người cũng muốn thông chia cách chiến thắng Satan cho mỗi người chúng ta.
Phêrô kéo riêng Người ra: ông muốn tách Đức Giêsu ra khỏi con đường của Cha. Thay vì chấp nhận thân phận chung của nhân loại theo Ý Cha, ông muốn đi con đường riêng. Ông rơi vào thế muốn làm thầy, xuyên tạc ý Chúa nên bị mắng Satan là kẻ chuyên phá rối đường lối Thiên Chúa.
SA TAN theo tiếng Hipri là một danh từ chung có nghĩa là “đối thủ”, “kẻ chống đối” đôi khi được nhân cách hóa để ám chỉ quyền lực có thực chống đối lại Thiên Chúa và Ơn cứu độ nhân loại. Được gán cho nó mọi cản trở, chống phá dự tính của Thiên Chúa, hành động của Tên Phản Kitô, cội nguồn của TỘI LỖI …tên dối trá, cám dỗ phạm tội. Nó hoạt động trong thế giới này để làm cho nhân loại đi trệch đường lối của Thiên Chúa (Xavier Leson – Dufour – “Dictionnaise du N.T” – Satan).
Việc chống đối này đã khởi sự ngay trong Vườn Địa Đàng và tiếp tục cho đến tận thế: Kh 12, 9 gọi Con Rắn trong Êden là Satan.
Như vậy, Phêrô kẻ vừa tuyên xưng Người là Kitô đã trở thành kẻ chống đối, phá hoại chương trình của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Thật vậy, cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là do ý Thiên Chúa; Bắt ép Người tránh thoát tức là thúc đẩy Người bất phục tùng Thánh Ý Cha…Một sự xúi giục như thế chỉ có thể là công việc của Satan, tên đã lôi kéo Người đi theo đường lối đó lúc Người bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai…khi hành động như thế các môn đệ ngăn cản vương quốc Thiên Chúa đến…
Thành thử, Đức Giêsu nặng nề khiển trách Phêrô, không phải như là một cá nhân, nhưng như đại diện của các môn đệ (c. 33)…Lời khiển trách cùng nhắm đến tất cả những ai muốn đi theo Người (c.34)
Lui ra sau: nhắc lại cho Phêrô hãy làm môn đệ, đi sau Thầy.
Nhìn thấy môn đệ, Đức Giêsu trách Phêrô: lời trách hàm ý gởi cho mọi môn đệ. Đây là mối bận tâm lớn của Đức Giêsu: sợ môn đệ đi trệch đường lối của Chúa Cha, không đủ can đảm theo Thầy đến cùng: bán Thầy, chối Thầy. Và đó đã là sự thật. May là Đức Giêsu đã phục sinh….
-
Đường thập giá phục sinh cũng là lộ trình của người môn đệ (Mc 8, 34-35)
* Đối tượng: đám đông cùng với môn đệ
* Đây là mặc khải có chủ ý của Đức Giêsu: “ĐỨC GIÊSU GỌI… LẠI “
“Ai muốn theo tôi”: điều kiện để nên môn đệ Đức Giêsu
“PHẢI, TỪ BỎ mình, VÁC THẬP GIÁ mình mà theo”
* Đó là nghịch lý của Tin Mừng:
“QUẢ VẬY ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT ai liều MẤT mạng sống mình Vì TÔI và Vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy”.
Đức Giêsu muốn con đường Người đã đi cũng là của mọi người. Trong Nhất Lãm, môn đệ là người đi theo Thầy trên cùng một con đường, cùng số phận với Thầy (Mc 13,9-13, Mt 10,24-25).
“Phải”: hàm ý một điều gì đó bắt buộc, không miễn chuẩn được.
“Từ bỏ MÌNH” đừng quên cái MÌNH ở đây là cái tôi đã bị Satan và sự chết khống chế. Phải từ bỏ cái tôi hư hỏng này cùng các khuynh hướng xấu của nó.
“Vác thập giá mình” đây chính là cách “từ bỏ mình” được Đức Giêsu đề nghị. Vác thập giá ở đây là chấp nhận, trong tuân phục Ý Cha, những hậu quả do tội gây ra đang tác động trên thân phận làm người của mình, nhìn thẳng vào vấn đề, không trốn chạy và đi đến cùng phận người ấy với mọi hệ quả như Đức Giêsu đã đi. Đây không là một huỷ bỏ toàn diện làm lại từ số không. Đây là cuộc chiến đấu để tái định hướng ước muốn của mình, kéo nó về lại với Thiên Chúa. Cụ thể, thay vì hướng cuộc đời mình về mình thì hướng về Đức Giêsu và về TIN MỪNG, đến độ sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Người và cho TIN MỪNG, đó chính là ý nghĩa của cách nói “mất mạng vì Ta và vì TIN MỪNG”.
TÓM KẾT:
Đức Giêsu thật sự là Đấng Kitô mà Thiên Chúa đã gởi tới trần gian theo như lời hứa để mang ơn cứu độ cho Israel và thế giới. Nhưng Người là Đức Kitô thập giá. Đây là cớ vấp phạm ngay cả đối với các môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu. Thật vậy, sau biết bao công lao đào tạo, Phêrô và các bạn mới nhận ra được Đức Giêsu là Kitô: Thế nhưng ngay sau đó, khi nghe mặc khải thập giá, Phêrô đã bị mắng là Satan vì lẩn tránh thập giá, làm cớ vấp phạm cho Đức Giêsu. Thập giá là đường lối huyền nhiệm của tình yêu và quyền năng Thiên Chúa; Đức Giêsu phải đi qua con đường đó để tỏ lộ Người là Đấng Kitô. Để có thể theo làm môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi não trạng, mặc lấy tư tưởng của Thiên Chúa, nhận lấy lối sống của Đức Giêsu làm của mình nghĩa là phải vác thập giá của mình mà theo.
Tuy nhiên đó là thập giá cứu độ vì những ai chấp nhận nó sẽ được phục sinh, sẽ cứu được mạng sống mình. Đó chính là quyền năng, tình yêu Thiên Chúa đã biến đổi án phạt thành phương thế cứu độ con người.
Ferère Pierre Đình Long FSC