CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – năm C

Bài 1

Is 62,1-5; Ga 2,1-11
Chủ đề: Niềm vui nên trọn nhờ được Thiên Chúa cứu giúp kịp thời.

* Is 62,4b: Vì ngươi sẽ được YAVÊ đem lòng sủng ái và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.

* Ga 2,7a.9a: “các anh hãy đổ đầy nước vào các chum đi” … và nước đã hóa thành rượu.

Chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Thường Niên. Tuy nhiên chủ đề của bài đọc Tin Mừng hôm nay vẫn còn nằm trong ý hướng của Mùa Giáng Sinh: Thiên Chúa tỏ mình. Lễ Hiển Linh: Chúa tỏ mình cho chư dân mà các nhà chiêm tinh là đại diện; Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa: tỏ mình cho số còn sót lại của tuyển dân Cựu Ước; Và hôm nay: Chúa tỏ mình cho cộng đoàn thiên sai do Đức Giêsu thiết lập. Nhìn dưới khía cạnh lịch sử phụng vụ, ban đầu, Giáo Hội chưa có các lễ Giáng Sinh – Hiển Linh – Đức Giêsu chịu phép rửa riêng biệt như ngày nay; Tất cả được mừng chung trong một ngày, và dấu vết của chi tiết lịch sử này còn được Giáo Hội lưu truyền lại trong phần ĐIỆP CA của hai bài Thánh Ca Tin Mừng sáng lẫn chiều của phụng vụ các giờ kinh lễ HIỂN LINH:

“Ba phép lạ điểm tô một ngày thánh,
Cả cộng đoàn được hân hạnh mừng chung:
Ngày hôm nay Ngôi Sao lạ dẫn đường
các hiền sĩ tới tận nơi máng cỏ.
Ngày hôm nay cả sáu chum nước lã
Đã biến thành rượu quý tiệc tân hôn.
Ngày hôm nay trong dòng nước Giođan,
Đức Kitô để Gioan làm phép rửa”.

Việc cử hành ba biến cố trong một ngày được khởi sự khoảng thế kỷ IV bên Đông Phương. Về sau khi lễ này lan qua Tây Phương thì dần dần được tách làm ba lễ riêng biệt như hiện nay: ba lễ được cử hành trong ba Chúa Nhật liên tiếp với cấu trúc: Hiển Linh thuộc hẳn về Mùa Giáng Sinh – Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vừa là kết Mùa Giáng Sinh vừa là mở ra cho Mùa Thường Niên – và hôm nay thuộc hẳn về Mùa Thường Niên. Cấu trúc này làm nổi bật tính thống nhất của Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên: Mùa Giáng Sinh là Thiên Chúa tỏ mình trong Hài Nhi Giêsu; Mùa Thường Niên: Thiên Chúa tỏ mình qua sứ vụ công khai của Đức Giêsu; Rồi Mùa Chay: Thiên Chúa tỏ mình qua những tiêu cực của kiếp người: qua Thập Giá; Mùa Phục Sinh Chúa tỏ mình qua chiến thắng tử thần, tôn vinh nhân tính Đức Giêsu là CHÚA; nắm quyền bá chủ toàn thể vũ trụ và dòng lịch sử (Thăng Thiên). Trong tư cách đó, Đức Giêsu sai Thánh Thần xuống trên Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục công cuộc của Đức Giêsu cho đến tận thế… Dòng lịch sử sẽ hoàn tất khi Đức Giêsu quang lâm thu tóm mọi sự dâng lên Cha (lễ Kitô Vua).

Tuy nhiên khi được tách ra làm thành một lễ riêng, bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật II C Mùa Thường Niên lại được nối kết với bài đọc 1 là Is 62,1-5, đó là sấm ngôn loan báo cho dân Chúa rằng Thiên Chúa sẽ can thiệp khôi phục lại Giêrusalem, làm dung mạo thành đô nên rạng rỡ. Việc đổi đời này được diễn tả bằng những hình ảnh vay mượn từ kho tàng văn chương truyền thống nói về hôn nhân. Do đó, ở đây chúng ta sẽ đọc đoạn Tin Mừng Ga 2,1-11 theo hướng NIỀM VUI NÊN TRỌN nhờ có Đức Giêsu can thiệp cứu giúp kịp thời giải tỏa cái bế tắc “hết rượu” thành niềm vui “hưởng dùng rượu mới thiên sai”.

Bài đọc 1 là sấm ngôn gởi cho dân Chúa, mặc dù đã hồi hương, nhưng lại đang nản lòng vì thấy Đền Thờ đổ nát, Giêrusalem hoang tàn… bao khó khăn đang vây bủa. Ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa, ngỏ lời an ủi khích lệ dân:

  • Thiên Chúa đã cứu dân khỏi lưu đày thì Người cũng không bỏ quên dân đâu! Chắc chắn Thiên Chúa sẽ can thiệp thay đổi số phận của Giêrusalem. Cuộc đổi đời ngoạn mục này được diễn tả bằng những hình ảnh thân quen, truyền thống. Hình ảnh thứ nhất là

  • Chúa đặt cho Giêrusalem một tên mới: theo Kinh Thánh, đổi tên là đổi đời. CHÚA đổi tên thành đô nghĩa là Chúa sắp đưa Giêrusalem vào một vận hội mới tràn trề niềm vui và hy vọng như Chúa đã đổi tên Abraham và Sara (St 17) rồi sau đó cho hai ông bà hạ sinh Isaac trong lúc tưởng chừng là tuyệt vọng. Vậy đối với Giêrusalem, cụ thể là gì?

  • Tình trạng điêu tàn, đổ nát của Giêrusalem khiến cho thành đô bị gọi tên là “đồ bị ruồng bỏ”, “phận bạc duyên đơn”. Hình ảnh một cô gái già, ế chồng ấy, từ nay được Chúa thương ra tay trợ giúp đã đổi đời trở thành “Ái khanh lòng Ta hỡi”, “duyên thắm chỉ hồng”.

Bất hạnh trở thành hồng ân! Điều Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước, Đức Giêsu sẽ làm nên hiện thực. Tin Mừng thuật lại chuyện “Tiệc cưới Cana”. Niềm vui của cặp hôn phối có nguy cơ trở thành bất hạnh: HẾT RƯỢU. Và nguy cơ ấy càng khốc hại khi các nhân vật chủ chốt trong bữa tiệc là: cô dâu chú rể, ông quản tiệc đều không hay biết sự cố này. May thay: nhờ Mẹ Maria nhạy cảm, yêu thương, trách nhiệm nhận lấy cái khốn cùng của kẻ khác làm như là của mình nên nài xin Đức Giêsu; nhờ Đức Giêsu dù “giờ chưa tới” vẫn sẵn sàng can thiệp làm DẤU LẠ; Và cũng phải kể là nhờ các GIA NHÂN dễ bảo trước các lệnh truyền của Mẹ và của Đức Giêsu. Đôi hôn phối được cứu mà không hay biết! Niềm vui nên trọn nhờ Đức Giêsu tỏ mình. Và còn hơn nữa Niềm vui của đôi hôn phối còn là niềm vui lớn lao hơn nhiều của đoàn môn đệ: Họ nhận ra ý nghĩa của dấu lạ, nhận ra vinh quang mà Đức Giêsu muốn tỏ hiện và HỌ TIN VÀO NGƯỜI. Đó mới là Niềm Vui, sự đổi đời chính yếu: Tin và trở thành môn đệ Đức Giêsu.

Thiên Chúa vẫn còn can thiệp từng phút giây vào cuộc đời tín hữu và mọi người để niềm vui nhân loại được trọn vẹn! Đáp trả của chúng ta là gì?

  • Thờ ơ, vô tâm như cô dâu chú rể, cứ muốn “dzô 100%” mà không biết rượu đã hết

  • Hay ý thức, đón nhận, Tin và trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu?

Người môn đệ chân chính của Chúa là người luôn tin có Chúa ở cùng, luôn sống trước sự hiện diện của Chúa; luôn tin rằng Chúa đang điều khiển dòng lịch sử; luôn tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa can thiệp đúng lúc vì ơn cứu độ nhân loại. Do đó luôn lắng nghe và sẵn sàng “Người bảo gì cứ việc làm theo”. 

Bài 2

Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (2,5) … người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (2,9) … Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (2,11).

Dòng lịch sử vẫn trôi đều và tiến về cùng đích đã được định hướng, Giáng Sinh đã là một biến cố lịch sử. Việc vui mừng tưởng niệm biến cố đó hằng năm cũng vừa trôi qua. Tuy nhiên Mầu Nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình, hiển linh cho nhân loại vẫn còn đang và mãi tiếp diễn. Tiếp diễn cho đến tận thế. Và phương thức tỏ mình, hiển linh vẫn là qua thân phận làm con người, Chúa tiếp tục tỏ mình qua cộng đoàn môn đệ mà Người đã thiết lập lúc sinh tiền. Để thực hiện được công cuộc tỏ mình, hiển linh huyền diệu ấy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã đảm nhận kết hiệp nên một bất khả phân ly với nhân tính con người Giêsu. Nhờ sự kết hợp huyền diệu giữa Ngôi Lời và nhân tính Giêsu mà Thai Nhi Giêsu (lúc Đức Mẹ đi viếng bà Elisabet), rồi Hài Nhi (Giáng Sinh), rồi cậu thiếu nhi Giêsu 12 tuổi, rồi chàng thanh niên Giêsu trạc tuổi 30, đến sông Giođan chịu phép rửa của Gioan như một tội nhân, rồi tiếp đó là nhà giảng thuyết Giêsu, con bác thợ mộc lại loan báo một giáo lý mới mẻ kèm theo những dấu lạ chỉ có thể đến từ Thiên Chúa, rồi cuối cùng lại bị kết án là tên tử tội Giêsu, rồi Đấng Phục Sinh đã từng bước một, thích hợp với từng giai đoạn, tỏ mình và ban ơn cứu độ cho thế giới.

Như vậy ngang qua và nhờ nhân tính của Đức Giêsu mà vinh quang thần linh của Thiên Chúa được tỏ lộ trọn vẹn và ơn cứu độ thế giới được hoàn tất.

Nhưng rồi Đức Giêsu thăng thiên! Người không còn hiện diện hữu hình giữa chúng ta nữa. Vậy “con – người – Chúa – Giêsu” sẽ tiếp tục công cuộc mà đã được Người khởi công trong Mầu Nhiệm Nhập Thể như thế nào?

Người tiếp tục trong Nhiệm Thể của Đức Kitô toàn thể, nghĩa là Thân Thể huyền nhiệm có Đức Giêsu phục sinh là Đầu, Giáo Hội và các tín hữu là thân và có Chúa Thánh Thần như hồn sống (Từ điển Công Giáo – “Chúa Thánh Thần, Đền Thờ”).

Chính vì thế, một trong những sứ vụ chính yếu của Đức Giêsu trong giai đoạn rao giảng công khai là tuyển chọn, đào tạo, tỏ mình ra cho nhóm môn đệ, tẩy luyện, ban quyền…, tuôn đổ Thánh Thần trên họ, đồng hóa Người với họ, “ở lại trong họ”, hiệp nhất với họ… biến họ thành chi thể trong Nhiệm Thể của Người. Chính trong tư cách là Thân Thể của Đức Kitô – toàn – thể, đoàn môn đệ là Đức Kitô nối dài tiếp tục công cuộc tỏ mình, hiển lộ vinh quang Thiên Chúa cho toàn nhân loại.

Lời Chúa của Chúa Nhật II C Mùa Thường Niên, Đức Giêsu tiếp tục hiển linh qua cuộc sống công khai: tất cả mọi lời Người dạy, mọi việc Người làm đều bày tỏ vinh quang Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho con người. Việc đầu tiên Đức Giêsu nghĩ tới là tìm người kế thừa sứ vụ: chọn và đào tạo môn đệ (x. Mc 1,16-20) để họ kế nghiệp Người (Mc 3,14-15). Người biến đổi các ông tận căn từ một ngư phủ trở nên người đi chinh phục kẻ khác về cho Chúa (Mc 1,17). Kế hoạch dài lâu là như thế, nhưng trước mắt, Đức Giêsu cần phải tỏ mình để họ tin vào Người. Và dĩ nhiên khi được Thiên Chúa tỏ mình và tin thì cuộc đời của người được chọn sẽ đổi thay. Trong Chúa Nhật II C Mùa Thường Niên, yếu tố chung cho cả hai bài đọc được Lời Chúa chọn để diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình và làm đổi thay số phận người được chọn là hình ảnh về HÔN NHÂN:

BÀI ĐỌC I: Is 62,1-5

Trong lúc dân bị lưu đày khổ nhục, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến an ủi khích lệ dân, những hình ảnh tương lai đẹp như mơ làm dân tràn trề hy vọng: “hoang địa biến thành hồ ao, đất khô nên mạch nước dồi dào” (Is 41,18b); “lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc… tường trong lũy ngoài toàn đá quý. Con cái ngươi Yavê dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng thái bình” (Is 54,12-13); “Đến cả đi… dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu mua sữa không phải trả đồng nào” (Is 55,1) … Thế nhưng khi vua Ba Tư cho hồi hương; Về đến Palestin, thực tế trước mắt không lý tưởng như lúc ở Babylon nghe Isaia đệ nhị loan báo: thực tế, Giêrusalem điêu tàn, dân cư kém cỏi, nghèo nàn, thưa thớt có cả dân ngoại lẫn lộn vào, đất đai bị bọn thực dân chiếm, nhất là người Samari, Đền Thờ là một đống đổ nát; Rồi việc tái thiết gặp khó khăn, bị chống phá, lại còn hạn hán… Những điều đó đã nảy sinh những ý tưởng, thái độ tiêu cực trong đám hồi hương: họ bỏ bê việc chung, rút lui về lo cho cá nhân gia đình rồi còn than trách Chúa nữa (x. Is 58,3; 59,1.13). Chính trong bối cảnh như vậy, Isaia đệ tam xuất hiện phân tích nguyên do, tình hình rồi loan báo sứ điệp hy vọng, ngày Giêrusalem được tỏa sáng.

Is 62 là một phần những lời loan báo hy vọng đó. Bằng những hình ảnh truyền thống, đặc biệt những câu được trích làm bài đọc 1, Is 62, 1-5 mô tả vẻ huy hoàng của Giêrusalem vào thời được cứu chuộc.

1.Thiên Chúa tỏ mình làm Israel nên vinh quang (62,1)

Đây là lời trần tình của Chúa nhằm giúp dân hiểu được phần nào dự tính của Thiên Chúa cũng như cách hành động của Người hầu kiên tâm vững tin cho dù thực tế trước mắt vẫn còn nhiều khốn khó.

*“Tôi sẽ không nín lặng”: trong lịch sử cứu độ, có những lúc Thiên Chúa thinh lặng như không có mặt: hoặc đó là lúc Thiên Chúa tập con người sống trưởng thành, tập sử dụng tự do như trường hợp Adam; hoặc đó là lúc Chúa đang chuẩn bị cho một cuộc can thiệp mạnh hơn để hồi phục và đưa dòng lịch sử cứu độ lên một mực độ cao hơn. Vậy sự nín lặng không phải là đường lối chung cuộc của Thiên Chúa; Chúa không hề bỏ mặc dân, nhưng sẽ can thiệp bày tỏ ý định của Người để cứu dân.

*“Tôi nghỉ yên sao đành Thiên Chúa luôn làm việc (Ga 5,17). St 2,2 cho thấy rằng Thiên Chúa chỉ nghỉ ngơi khi công trình sáng tạo cơ bản hoàn tất. Ở đây dân Chúa còn trong cảnh lưu đày, việc cứu dân chưa xong, lẽ nào Thiên Chúa “nghỉ”. Chúa sẽ làm việc “cho tới khi” nghĩa là cho đến lúc công trình cứu độ hoàn tất, dân Chúa được cứu, được giải thoát mới thôi.

*“Vì lòng mến Sion… Giêrusalem: động lực của việc làm, của sự can thiệp giải cứu là lòng mến, là tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel. Vì động lực phát xuất từ chính Tình Yêu của Thiên Chúa, cho nên việc Israel được giải cứu là chắc chắn. Và Chúa biểu lộ quyết tâm đó qua cách nói “cho tới khi”. Điều Chúa muốn là làm cho “đức công chính” và “ơn cứu độ” của Giêrusalem, của Sion được sáng lên như “hừng đông”, như “ngọn đuốc”.

*“Đức công chính”, “ơn cứu độ” của Giêrusalem không phải là công đức Israel lập được để Chúa phải “trả công” cho dân. Đó chính là tình yêu tha thứ, bao dung của Chúa trước thái độ nhận lỗi, trách nhiệm và các hậu quả của tội mình (xem thái độ của tên trộm lành) rồi nỗ lực sám hối, phó thác cho tình yêu tha thứ của Chúa. Chúa coi những nỗ lực đó là “công nghiệp” (xem Is 40,10 trong bài suy niệm “lễ Chúa Giê su chịu phép rửa” C tuần trước).

Trong đường hướng trên với cái nhìn của Tân Ước, cách nói “đức công chính và ơn cứu độ của Israel rực sáng…” không gì khác hơn là việc Đức Giêsu được ban xuống và tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt qua Giáo Hội. Thời gian “thinh lặng”, “nghỉ ngơi” tạm thời của Thiên Chúa chỉ là những chuẩn bị cho cú nhảy vọt lên mực độ cao hơn của ơn cứu độ mà chóp đỉnh là ban tặng Con Một, Đức Giêsu: nơi Người, Thiên Chúa nói tiếng “THA THỨ” một cách dứt khoát, phục hồi trọn vẹn “hình ảnh Thiên Chúa” nơi nhân tính chúng ta, còn ban cho Thần Khí, quyền làm con Thiên Chúa và cuối cùng đưa tất cả công trình sáng tạo vào trời mới đất mới.

2.Số phận đổi thay (62,2-3): một khi được Thiên Chúa tỏ mình, Israel nhận ra và hiểu được đường lối, ý nghĩa các hành động của Chúa đối với mình, thì ngay lập tức vận mạng dân Chúa đổi thay:

*Đối với bản thân: những gì trước giờ dân vẫn coi như là “hình phạt” thì nay khám phá ra rằng đó là cách thức Thiên Chúa đang tẩy luyện, chữa lành; Những gì là đọa đày, ô nhục, là “vòng kim cô” … thì khi được Chúa tỏ mình đó lại chính là, dưới con mắt tha thứ của Chúa, “công lao lập được”, là “đức công chính”, là “ơn cứu độ” của dân.

*Đối với chư dân: những gì Chúa thực hiện cho dân, Chúa đều làm công khai trước mắt chư dân và còn sử dụng chư dân như công cụ để huấn luyện, sửa dạy dân Chúa: Chúa dùng đế quốc Babylon để cảnh cáo, sửa dạy dân, Chúa dùng đế quốc Ba Tư để hồi phục dân, xây lại Thánh Điện…

Trong suy niệm mầu nhiệm Giáng Sinh ta đã thấy vua quan, hoàng đế, các biến cố tốt xấu… Augustô – Hêrôđê –  Quiriniô đều là công cụ của Chúa để “lời ngôn sứ được ứng nghiệm”

Việc đổi đời đó còn được Kinh Thánh diễn tả bằng một cách thức truyền thống: đổi tên, một tên mới do Chúa đặt cho.

*Đối với Thiên Chúa: khi được Chúa tha thứ, tỏ mình dân trở nên vinh quang của Chúa: là “ngọc miện huy hoàng”, là “mũ triều thiên vương giả” được Chúa nâng niu, tự hào đem ra “trang điểm” cho chính Chúa.

Trong Tin Mừng Luca chắc không có “mũ triều thiên”, “ngọc miện” nào trang điểm lộng lẫy cho “Vua Thập Giá” bằng tên tử tội treo bên hữu Người: chính Y đã tỏ lộ ra cho toàn thế giới và kéo dài mãi đến ngày Tận Thế, thấy được quyền vua tuyệt đối, tức thời, hiệu quả của Đức Giêsu Thập Giá.

3.Được mang tên mới (62,4-5) một dấu chỉ nữa cho thấy Thiên Chúa không thể nào bỏ dân được biểu lộ qua việc “đổi tên” và “kết hôn ước”:

Tình yêu bao dung, tha thứ của Thiên Chúa đã đưa con người vào một tương quan mới, được biến đổi tận căn: kẻ “đồ bị ruồng bỏ” giờ trở thành “Ái Khanh lòng Ta”; kẻ “phận bạc duyên đơn” giờ nên “duyên thắm chỉ hồng”.

Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn cần nơi con người một đáp trả: tôn trọng HÔN ƯỚC.

Tóm lại, bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, bài đọc 1 cho thấy rằng Thiên Chúa đã tỏ lộ cho Sion biết mối chân tình và dự tính yêu thương của Chúa đối với dân. Đối với Chúa, dân luôn là quý giá. Chúa đã khai sáng mọi sự trong tình yêu thì cũng sẽ kết thúc trong tình yêu. Thiên Chúa tiếp tục tỏ mình là Thiên Chúa tình yêu, tìm đủ mọi cách để nối lại “hôn ước” và mời gọi dân Chúa, sống ngay giây phút hiện tại ơn gọi “hiền thê” của Chúa, trở thành niềm hân hoan cho Thiên Chúa của mình. Đó là số phận đích thực mà Chúa dành cho dân; Đó là vị trí huy hoàng Chúa dành cho dân trong tim Chúa và đó cũng là phương thức Chúa dùng để tỏ lộ cho cả chư dân vinh quang thần linh của Chúa.

TIN MỪNG: Ga 2,1-11

 Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa tiếp tục hiển linh, tỏ mình qua con người Giêsu, giờ đây đang là một “rabbi” (x. Ga 1,49) dạy dỗ dân chúng. Trong Tin Mừng Gioan, việc đầu tiên chiếm hết mối bận tâm của Đức Giêsu trong tuần lễ khai mạc là thiếp lập cộng đoàn môn đệ của thời thiên sai. Người cho họ theo sát Người ngay từ đầu sứ vụ; Rất sớm ban cho họ dấu chỉ thiên sai (Tiệc cưới – Nước hóa rượu) để họ tin vào Người. Cả tuần đầu (có thể so sánh với Tuần Sáng Tạo trong St 1), Đức Giêsu lo thiết lập cộng đoàn mới, nền tảng cho mọi công cuộc sau này của Người.

Tin Mừng hôm nay là ngày cuối của tuần khai mạc ấy, Đức Giêsu đưa cộng đoàn thiên sai Người vừa thành lập đi vào nhiệm cục mới: Tiệc tân hôn với dấu lạ đổi thay bản chất sự vật, nước hóa thành rượu (báo trước Bữa Tiệc Ly cuối đời dương thế của Người – cũng là một phép lạ biến đổi bản chất sự vật – rượu biến thành MÁU: Tiệc Thánh Thể).

Đức Giêsu hiển linh sớm công việc của “Giờ”, nhờ đó đôi tân hôn số phận thoát cảnh ngặt nghèo, niềm vui thăng hoa; các tông đồ trở thành cộng đoàn đức tin. Không thể quên được vai trò chuyển cầu và lòng tin của Mẹ Maria. Và nhất là, mọi thực khách được quy tụ lại trong bữa tiệc cưới đó – dù biết hay không – đều được hưởng dùng ơn huệ do Đức Giêsu hiển linh.

1.Khung cảnh nền của trình thuật (2,1-3a)

*Tiệc cưới, trong Kinh Thánh, là hình ảnh biểu tượng thường được dùng để ám chỉ bữa tiệc cánh chung. Thật vậy, “bối cảnh tiệc cưới nối kết đoạn văn này với đề tài đã được Cựu Ước biết đến về hôn nhân giữa Thiên Chúa với dân Người (x. Is 62,1-5: bài đọc 1); Gioan Tẩy Giả cũng giới thiệu Đức Giêsu như là vị hôn phu (Ga 3,29); Ngoài ra Đức Giêsu cũng tự xưng mình như là vị hôn phu (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34) và Người mô tả Nước Trời dưới hình ảnh một bữa tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng Sách Khải huyền còn dùng đề tài này để nói lên việc kết thúc kỷ nguyên này và việc xuất hiện của kỷ nguyên tương lai (Kh 19,7-9; 21,2, so sánh Ep 5,22 tt)” (xem chú giải Phúc Âm Chúa Nhật C Mùa Thường Niên trang 14-15).

Như vậy ngang qua dấu lạ trong tiệc cưới, Tin Mừng thứ tư công bố thời thiên sai đến rồi, bắt đầu với Đức Giêsu. Đó là cách trình bày của Gioan, tương đương với cách nói “Triều đại Thiên Chúa đã tới gần” trong Nhất Lãm (Mc 1,15//)

*Ngày thứ ba: thuật ngữ gợi nhớ ba biến cố Cựu Ước: Abraham khỏi hiến tế Isaac (St 22,11.12.17-18), Sấm ngôn của Hs 6,2; Chuyện ngôn sứ Giona được cá nhả ra (Gn2,11) (xem thêm phần suy niệm MTN XXII A). Vậy chi tiết “ngày thứ ba” này hé mở mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh (thứ 6, thứ 7, ngày hiện ra): nhân tính Đức Giêsu hiển linh trọn vẹn vinh quang thần linh cho môn đệ, tôn vinh Thiên Chúa, đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, nhân loại thoát ách tội lỗi và tử thần.

Trong Tin Mừng Gioan, đây là ngày cuối trong tuần lễ khai mạc, thiết lập cộng đoàn thiên sai; Điều đó gợi lại ngày Thiên Chúa hoàn tất công tình sáng tạo (St 2,1-2). Đó là ngày Thiên Chúa hiển lộ trọn vẹn vinh quang thần linh đưa mọi sự đến chỗ hoàn tất, Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.

*Thiếu rượu: tiệc cưới bao gồm ăn uống, múa nhảy, giải trí kéo dài trong bảy ngày, đôi khi kéo dài gấp đôi, tụ tập lại – thường là ở bên nhà chồng – hết thảy bà con họ hàng (Xavier Léon – Dufour “Dictionnaire du NT” p.62). Nếu không lường trước mọi phát sinh thì có thể bị thiếu rượu. Lúc ấy thật là mất mặt, bất hạnh.

Hạnh phúc, danh dự, niềm vui của đôi tân hôn và hai họ được cứu, đổi mới nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Mẹ Maria và cộng đoàn thiên sai giữa họ.

  1. Phản ứng của Đức Mẹ và Đức Giêsu (2,3b-5)

*“Họ hết rượu rồi”: Đức Mẹ xin Đức Giêsu can thiệp giúp đôi hôn phối,

– Về mặt nhân bản, Đức Mẹ thật nhạy cảm, quan tâm đến nhu cầu của kẻ khác, biết đặt mình vào vị trí của tha nhân, dám đảm nhận trách nhiệm, coi sự thiếu sót như là của mình (Adam, Eva có tội lại chối) rồi tìm cách giải cứu.

– Về mặt thần học: với biến cố Truyền Tin và thời thơ ấu của Đức Giêsu, Mẹ cũng biết con mình là ai rồi, nên Mẹ cũng mong con biểu lộ quyền năng để cứu đời. Tác giả sách Tin Mừng tứ tư đã khai thác cách khéo léo các yếu tố của 1 đám cưới tự nhiên để xen vào các ý tưởng mặc khải về căn tính thần linh của Đức Giêsu, về bữa tiệc cánh chung. Và theo văn mạch, câu 5 cho thấy là Mẹ tin rằng Đức Giêsu nhận lời: Mẹ đúng là “người nghèo của Thiên Chúa”: ANAWIM

Tuy nhiên cách thức mà Đức Giêsu can thiệp cứu giúp, và ý nghĩa báo trước nhiệm cục mới của ơn cứu độ thay thế cho Giao Ước cũ thì chắc chắn là vào thời điểm tiệc cưới, Mẹ không thể biết. Chính Đức Giêsu đã hé mở qua lời Người đáp ở câu 4 và cách làm biến nước lã thành rượu (thay vì làm phép lạ “hóa rượu không cạn như trong Ga 6 hóa bánh ra nhiều hay như Elia cho hũ bột không cạn, bình dầu không vơi…) thay đổi bản chất sự vật mới hé mở cho ta biết kỷ nguyên mới đã khởi sự.

*“Này người phụ nữ” = “gunai” (2,4 so với 19,26): ở đây Đức Giêsu không xưng hô “Mẹ – Con” mà gọi Đức Mẹ là “hỡi người phụ nữ”; Cách gọi này được Đức Giêsu lập lại khi trao phó người môn đệ Người yêu cho Mẹ lúc Người đang bị treo trên Thập Giá (Ga 19,26). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Mẹ xuất hiện chỉ hai lần: tại tiệc cưới Cana, cuối tuần khai mạc sứ vụ; và ở chân Thập Giá kết thúc tuần Thương Khó, cuối đời Đức Giêsu; và đều được Đức Giêsu gọi là “hỡi người phụ nữ”.

Vậy hai biến cố “tiệc cưới Cana” và “Thập Giá” liên kết chặt chẽ với nhau: trong “tiệc cưới”, Mẹ đã nài xin Đức Giêsu cứu giúp nhân loại (cô dâu, chú rể và mọi người tham dự tiệc cưới đó); rồi trên Thập Giá, Đức Giêsu TRAO LẠI cho Đức Mẹ một nhân loại đã được Người chữa lành và biến thành “môn đệ Chúa yêu”.

Và cách gọi trên cũng gợi lại St 2,23: Adam gọi người nữ là “người phụ nữ”, là “người đàn bà”. Vậy là đã rõ, khi gọi Mẹ là “người phụ nữ” trong mạch văn “tuần khai mạc” và trên Thập Giá, Tin Mừng thứ tư muốn mặc khải Đức Giêsu là Adam mới và Đức Mẹ là Eva mới: như vậy nhân loại và mọi sự được phục hồi trong Đức Giêsu, Adam mới với sự cộng tác của Eva mới: giờ đây khai mạc với dấu lạ “nước hóa rượu” (rồi trong Tiệc Ly: rượu thành MÁU), Thiên Chúa hoàn tất phần của Người nơi con người Đức Giêsu mà chóp đỉnh là Thập Giá và Phục Sinh, để rồi cuối cùng cũng trong Đức Giêsu, mọi sự sẽ được qui tụ tất cả lại trong ngày cánh chung. Tuy nhiên tại tiệc cưới Cana thì:

*“Giờ con chưa đến”: “giờ” ở đây ám chỉ thời điểm Thập Giá và Phục Sinh. Đúng! “Giờ” đó chưa đến. Nhưng tiệc chuẩn bị mọi mặt để khi “Giờ” đó đến thì cộng đoàn thiên sai có thể đón tiếp cách chủ động là cần thiết và còn có thể nói là cấp bách nữa. Sự thật phũ phàng đã chứng minh điều đó: dưới chân Thập Giá chỉ còn lại “người môn đệ Chúa yêu”.

Nên dấu lạ này bên ngoài là giúp đôi hôn phối, nhưng thực chất là nhắm vào đoàn môn đệ. Thật vậy kết cục của dấu lạ không nhắm vào các thực khách đám tiệc (họ chẳng biết gì) mà là cho đoàn môn đệ: “các môn đệ đã tin vào Người” (c.11).

Vậy điều chính yếu là các môn đệ phải tin vào Đức Giêsu, nhận ra căn tính thần linh của Người khi Người tỏ mình kể cả qua những phút giây ngặt nghèo nhất, để họ sau này sẽ là chứng nhân và mọi người, mọi thế hệ, mọi nơi đều có thể dựa vào đức tin của họ mà tuyên tín “lạy CHÚA của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28b), nhờ đó mà được sống (Ga 20,30-31).

*“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo

Mẹ không biết Đức Giêsu sẽ can thiệp như thế nào! Mẹ cũng không lạm quyền làm mẹ để can thiệp vào chương trình của Đức Giêsu. Mẹ chỉ chia sẻ lại cho các gia nhân KINH NGHIỆM ĐÍCH THÂN của Mẹ trong tương quan với ý định của Thiên Chúa: trước đường lối lạ lùng của Chúa, Mẹ phó thác bằng lời đáp “tôi đây là NỮ TỲ của Chúa, Xin Chúa CỨ LÀM CHO TÔI như lời Sứ Thần nói” (Lc 1,38), Rồi năm Chúa 12 tuổi, Mẹ chưa hiểu ý Chúa thì Chúa mặc khải… và Mẹ đã “ghi nhớ những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).

Trong tương quan với nhân loại khổ đau, khốn khó, Mẹ không tự ý giải quyết vấn đề theo tầm nhìn của Mẹ. Vai trò của Mẹ là THẤY rồi CHUYỂN CẦU và nhất là nâng đỡ giúp nhân loại biết PHÓ THÁC HẾT cho Chúa như Mẹ: Mẹ ơi, xin giúp và dạy đoàn con biết noi gương Mẹ “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Nhờ lời chuyển cầu và hướng dẫn của Mẹ nên các gia nhân đã dám làm một việc xem ra là “bất kính”: múc nước lạnh dùng để rửa tay mà đem cho người quản tiệc nếm.

  1. Dấu lạ đầu tiên (2,6-11)

Đối với người Do Thái, các nghi lễ thanh tẩy là một trong những luật cốt yếu của việc sống đạo (x. Mc 7,3-4). Sáu chum được nói tới trong trình thuật là được dùng đựng nước để khách mời khi đến sẽ rửa chân (ám chỉ là được mời và được đón tiếp), và rửa tay trước khi ăn, nhập tiệc. Dung lượng của chum là khoảng 2 hoặc 3 “mêtretas” = “thùng”, mỗi “thùng” khoảng 40 lít.

*Hãy đổ đầy nước vào sáu chum đi! Và họ đổ đầy tới miệng (2,7)

“Đổ đầy” hàm ý sự thay đổi tận căn và toàn diện.

Để phép lạ xảy ra, phần đóng góp của các gia nhân không nhỏ: họ tin lời dặn của Mẹ và vâng phục Đức Giêsu cách mau chóng, vô điều kiện. Nhìn lại lịch sử nhân loại: Adam đã làm hư tất cả vì không tin vào lệnh Chúa. Để tái thiết, Thiên Chúa cần lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa từ phía con người. Trong trình thuật này, người đầu tiên biểu lộ niềm tin là Mẹ Maria; Rồi Mẹ truyền niềm tin đó cho các gia nhân và họ cũng đã tin vô điều kiện; Rồi kết quả chung cuộc là cả đoàn môn đệ đều TIN.

Trong Tin Mừng Gioan, mọi sự khởi đầu với lời mời gọi hãy tin (Ga 1,12), rồi các môn đệ đã tin (Ga 2,11), rồi trải qua bao sóng gió, tối tăm của Thần Chết, cuối cùng kẻ cứng lòng nhất trong môn đệ cũng đã TIN (Ga 20,28). Để rồi từ các môn đệ ấy, niềm tin lan tỏa khắp thế giới.

*Dấu lạ: Nước hóa thành rượu. Các dấu lạ khác chỉ là hồi phục, chữa lành hoặc tăng số lượng; bản chất sự vật không thay đổi. Còn ở đây “nước” không còn là nước nữa mà là rượu. Mỗi loại có công dụng, ý nghĩa khác nhau.

Đây chỉ là dấu lạ mờ nhạt báo trước hai cuộc biến đổi khác làm đổi thay bộ mặt trái đất và nâng nhân tính con người lên ngang bằng Thiên Chúa trong Đức Kitô.

Đó là trong Thánh Thể: rượu thành MÁU CHÚA; bánh thành THỊT MÌNH CHÚA.

Rồi với mầu nhiệm phục sinh, nhân tính Đức Giêsu được tôn vinh là ĐỨC CHÚA.

Rồi nhờ liên kết với Người, chúng ta cũng được thông phần thiên tính, được làm con Thiên Chúa, đồng thừa tự với Đức Giêsu (Rm 8,15-17).

TÌM HIỂU 2 BÀI ĐỌC
(bổ sung bài suy niệm)
Is 62,1-5  /  Ga 2, 1-11

Chủ điểm phụng vụ:

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật II C Mùa Thường Niên. Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm những hoạt động của Đức Giêsu trong giai đoạn người xuất hiện công khai loan báo Tin Mừng. Phụng vụ năm C mở đầu giai đoạn này bằng trình thuật Đức Giêsu bày tỏ quyền năm thần linh của Người cho đoàn môn đệ vừa được tuyển chọn, ngang qua DẤU LẠ biến Nước thành Rượu. Khung cảnh của dấu lạ là một bữa tiệc cưới mà Đức Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ được mời dự. Nước của nghi thức thanh tẩy của Do thái giáo đã được Đức Giêsu biến đổi thành Rượu mừng tân hôn của tiệc cưới cánh chung. Và các môn đệ đã TIN VÀO NGƯỜI.

Tương ứng với chủ để của trích đoạn Tin Mừng, bài đọc một mời chúng ta chiêm ngắm Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Người cho tuyển dân Cựu Ước qua việc can thiệp làm đổi thay số phận của Dân. Hình ảnh được vay mượn để làm công cụ diễn tả cũng là HÔN NHÂN: Dân sẽ được Chúa sủng ái và Chúa sẽ lập hôn ước với Dân.

Vậy Lời Chúa hôm nay hướng về chủ đề Thiên Chúa bày tỏ vinh quang Thần linh của Người cho những ai được Chúa tuyển chọn ngang qua lòng thương xót của người can thiệp biến đổi số phận cùng khốn ngặt nghèo của họ trở thành phúc lộc, huy hoàng.

Bài đọc 1 là lời tâm tình của Chúa ngỏ cùng đám dân hồi hương đang chao đảo vì những khó khăn bủa vây tứ phía. Chúa hứa sẽ không im lặng nữa, nhưng sẽ can thiệp làm cho muôn nước chiêm ngưỡng ĐỨC CÔNG CHÍNH của Dân: các đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang của dân tỏ hiện. Hình ảnh được sử dụng để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa đối với dân, vay mượn từ kho tàng ngôn ngữ hôn nhân: Chúa đội cho dân triều thiên ngọc miện; dân không còn bị gọi là “đồ bị ruồng bỏ”, “phận bạc duyên đơn”, nhưng được mang tên mới là “ái khanh lòng ta hỡi”, “duyên thắm chỉ hồng”. Vì Chúa đã sủng ái dân. Chúa vui vì nối lại được tình xưa nghĩa cũ với dân.

Còn trong Tin Mừng, Dấu lạ Đức Giêsu thực hiện đã cứu đôi tân hôn thoát khỏi cảnh khốn cực ngặt nghèo. Tuy nhiên sứ điệp chính của bài đọc Tin Mừng là Đức Giêsu đã đưa toàn bộ nhóm các môn đệ mà Người vừa thiết lập đi vào một vận hội mới: vận hội của thời TIỆC CƯỚI CÁNH CHUNG và họ đã TIN VÀO NGƯỜI. Như vậy cộng đoàn thiên sai thời cánh chung đã được thiết lập.

Trong dấu lạ này, đức tin và lời chuyển cầu của Mẹ Maria có 1 vai trò đặc biệt là khiến Đức Giêsu phải tỏ bày sớm DẤU LẠ THIÊN SAI dù “giờ Người chưa đến”.

Cộng đoàn thiên sai trong hiện tại là Giáo Hội, là cộng đoàn các tín hữu. Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi con người chúng ta để niềm tin cậy phó thác của chúng ta luôn gắn bó với Chúa Giêsu như Mẹ Maria để góp phần thúc đẩy Đức Giêsu mau can thiệp hoàn tất công trình cứu độ.

BÀI ĐỌC I: Is 62, 1-5

Văn mạch:

Trong tổng thể Is 60-62, phần được trích làm bài đọc 1 cũng là 1 lời đáp trả của Chúa cho những lời trách móc của dân Israel vang lên Chúa (X. Is 58,3 59, 1.13)

Về phần dẫn nhập vào Is 60-62 Xem “Bài đọc I: Is 60, 1-6” của “Bài Tìm Hiểu 2 bài đọc” lễ Hiển Linh ABC.

Bằng những hình ảnh truyền thống, Is 62 mô tả vẻ huy hoàng của Giêrusalem vào thời được cứu chuộc. Cấu trúc của Is 62,1-12:

  • Thiên Chúa hứa can thiệp làm Giêrusalem nên vinh quang qua các biểu tượng “đức công chính xuất hiện”, “ơn cứu độ rực lên”, “tên mới”, “ngọc miện”, “mũ triều thiên”. (1-3)

  • Vinh quang hạnh phúc của Giêrusalem: được thứ tha, nối lại nghĩa tình.

  • “đồ bị ruồng bỏ” trở thành “ái khanh lòng ta hỡi”

  • “Phận bạc duyên đơn” trở nên “duyên thắm chỉ hồng”

Đó là hình ảnh của một cuộc hôn nhân hạnh phúc giữa Chúa và Dân (4-5)

  • Được Thiên Chúa bảo vệ (6-9)

  • Chúa đặt lính canh gìn giữ

  • Chính Chúa cũng không nghỉ ngơi khi chưa hoàn tất công trình hồi phục Israel

  • Dân được hưởng trọn vẹn hoa trái do tay mình làm ra

  • Kết luận (10-12): Israel chắc chắn sẽ được thay thân đổi phận: thành thánh được trang hoàng dọn dẹp; Israel được cứu, được nên “dân thánh”, “cô gái đắt chồng”, “thành không bị bỏ”.

Bài 1 trích các câu 1-5: Thiên Chúa sắp ra tay can thiệp làm cho dân được vinh hiển. Người nôn nóng hồi phục dân, nối lại tình xưa nghĩa cũ, mong sống lại niềm vui hạnh phúc thời duyên tình nồng ấm.

CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH

  1. 1. Dự tính của Thiên Chúa về Giêrusalem (Is 62,1)

  • Chúa sẽ can thiệp ra tay giải cứu: “Tôi sẽ không nín lặng”

                                                                “Tôi nghỉ yên sao đành”

  • Động lực thúc Chúa ra tay: “vì lòng mến Sion, vì lòng mến Giêrusalem”

  • Quyết tâm kiên trì hoàn tất: “cho tới khi

    –  đức công chính của thành xuất hiện như hừng đông

    – ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc”.

Bối cảnh của sấm ngôn này chắc là thời kỳ khó khăn lúc mới hồi hương 537-500 TCN. Sau chiếu chỉ của vua Kyrus, một số người Do thái đạo đức đã lên đường hồi hương trong niềm hy vọng, ước mơ dựa trên lời hứa của Isaia đệ nhị. Nhưng về tới nơi, thực tế làm họ thất vọng: Giêrusalem chỉ còn là một đống đổ nát hoang tàn, rồi những khó khăn với chính quyền, dân cư lấn đất, hạn hán… khiến việc xây cất đền thờ bị trì trệ. Dân hồi hương đợt đầu bỏ cuộc, quay về lo riêng cho gia tộc mình. Phải đợi đến nhóm hồi hương thứ hai dưới sự lãnh đạo của Dơrupbaven và thượng tế Giôsuê thì công việc tái thiết đền thờ mới khởi sự lại và hoàn tất năm 515 TCN. Với Dơrupbaven, niềm hi vọng thiên sai vào hoàng tộc Đavit được khơi dậy, nhưng sau 515 TCN, ông này cũng biến khỏi sân khấu lịch sử và tường thành Giêrusalem cũng chưa xây dựng lại được.

Trước những khó khăn ấy, dân Chúa đã nảy ra các tâm trạng tiêu cực: kêu trách Chúa, bỏ việc chung lo tìm an toàn cá nhân… Isaia đệ tam đã được sai đến “khích lệ dân Chúa vững tin vào việc Thiên Chúa sẽ cho họ tái thiết Giêrusalem và làm cho Giêrusalem trở thành trung tâm ơn cứu độ cho muôn dân” (CGKPV – Các sách NS – trang 23).

             Xem thêm       Bài Suy Niệm:

  1. Thiên Chúa tỏ mình làm Israel nên vinh quang (62,1)

  • “Tôi sẽ không nín lặng”

  • “Tôi nghỉ yên sao đành”

  • “Vì lòng mến Sion…Giêrusalem…”

            Đức công chính của Giêrusalem… “công chính” chủ yếu là hành động phù hợp với ý Chúa (Ed 18,5-9); Sau lưu đầy người ta nhấn mạnh đến việc giữ luật… (J. Dheilly “Từ điển KT” xem “Công Chính” Cựu Ước). Hiểu theo nghĩa này thì “đức công chính của Sion” có nghĩa là Sion luôn làm theo ý Chúa, tuân giữ hoàn hảo Lề Luật của Người. Và như vậy thì theo như thực tế lịch sử, không biết đến bao giờ “đức công chính của Sion mới “xuất hiện tựa hừng đông” được. Do đó nên hiểu “đức công chính của thành” dưới góc nhìn từ phía Thiên Chúa: Người luôn trung tín với giao ước, và bất chấp hạnh kiểm của dân, khi tới thời tới lúc, Thiên Chúa vẫn can thiệp hoàn tất ơn cứu độ.

         Ơn cứu độ của Giêrusalem. “Yêsa” = ơn cứu độ. Khái niệm “cứu độ” gồm 3 mức độ:

  1. Cứu ra khỏi một tình trạng xấu, nguy hiểm; bảo vệ khỏi một nguy cơ.

  2. Gìn giữ, ổn định trong tình trang tốt có được

  3. Nâng cao tình trạng tốt đã có lên tới mức hoàn chỉnh.

   Ý nghĩa của khái niệm này bắt nguồn từ chính kinh nghiệm thực tế của Israel;

  • Mức độ 1: Giải cứu dân khỏi tình trạng nô lệ Ai Cập, đưa vào vùng đất tự do.

  • Mức độ 2: Ổn định dân trong tình trạng tốt đang có bằng cách ban Lề Luật Sinai biến đám nô lệ thành một dân có kỷ cương, có lẽ sống.

  • Mức độ 3: Đưa vào Đất Hứa, ban cho một vua thống nhất sơn hà thành một vương quốc hùng mạnh, giàu có có Đền Thờ để Chúa ngự giữa dân.

   Nhưng rồi dân Do Thái không giữ được tình trạng ấy, họ rơi lại vào cảnh nô lệ lưu đày và Thiên Chúa lại một lần nữa cứu họ:

  • Mức độ 1: tha thứ (Ed 36, 29) cứu khỏi lưu đày đưa về lại Đất Hứa

  • Mức độ 2: Xây dựng lại, tái thiết dựa trên Luật, ban bộ Ngũ Thư

  • Mức độ 3: Sẽ ban Đấng Mêsia, thiết lập vương triều Thiên Chúa cho Israel và cho mọi dân đưa tất cả vào trời mới đất mới (x.Is 65, 17; 66, 22).

   Trong đường hướng trên và với cái nhìn Tân Ước, cách nói “đức công chính và ơn cứu độ của Israel được rực sáng” không gì khác hơn là việc Đức Giêsu được ban xuống và tỏ mình ra cho chúng ta. Thời gian “thinh lặng”, “nghỉ ngơi” tạm thời của Thiên Chúa chỉ là để chuẩn bị cho mức độ cứu độ cao nhất là ban tặng Đức Giêsu: Đấng sẽ tha thứ hồi phục nhân loại, ban cho mọi người Luật Thần Khí, quyền làm con Thiên Chúa và cuối cùng đưa tất cả vào trời mới đất mới hoàn tất lịch sử cứu độ.

  1. Thiên Chúa báo cho Giêrusalem biết Người sẽ tôn vinh thành trước chư dân (Is 62,2)

  • Thiên Chúa làm muôn dân chiêm ngưỡng đức công chính của thành (2ab)

  • Làm cho mọi đế vương ngắm nhìn vinh quang Giêrusalem tỏ rạng (2cd)

  • Làm cho người ta gọi Giêrusalem bằng tên mới do miệng Yavê đặt cho (2đe)

      Những gì Thiên Chúa dự tính trong Is 62,1 sẽ được Người thực hiện cho   Giêrusalem trước mặt chư dân (2abcd), ngoài ra Thiên Chúa còn đặt cho Giêrusalem một tên mới nghĩa là ban cho thành một vận mạng mới. Nói cách khác muôn dân sẽ chiêm ngắm được những kỳ công Chúa sẽ làm cho Israel và chóp đỉnh các kỳ công ấy là chính Đức Giêsu: từ Israel, Đức Giêsu sẽ xuất hiện để chẳng những cứu Giêrusalem mà còn cứu muôn dân nữa.

  1. Giêrusalem trong tương quan mới với Thiên Chúa (Is 62, 3-5)

  • Là “ngọc miện huy hoàng”, “mũ chiều thiên vương giả” trong tay Chúa (3)

  • Nối lại nghĩa tình nồng thắm: “Đồ bị ruồng bỏ”, “Phận bạc duyên đơn” nay trở thành “Aí khanh lòng ta hỡi”, “Duyên thắm chỉ hồng”.

  • Nguyên nhân của đổi thay số phận: vì Yavê đem lòng sủng ái, lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. (4)

  • Thiên Chúa biến Giêrusalem thành niềm vui cho Thiên Chúa như cô dâu là niềm vui cho chú rể bằng hành vi yêu thương cưới Giêrusalem. (5)

       “Ngọc miện”, “triều thiên” là những biểu tượng của uy quyền, được dùng lúc Tân vương đăng quang hoặc xuất hiện trong các dịp lễ hội để thần dân triều yết. Giêrusalem là ngọc miện, triều thiên hàm ý rằng Chúa muốn đặt vinh quang, chính trực của Chúa nơi số phận của Sion, tùy thuộc vào vận mệnh Giêrusalem. Do đó Chúa không thể ruồng bỏ Sion được.

      Việc thứ tha hồi phục còn được diễn tả qua hình ảnh hôn nhân được nối kết lại: tình trạng “đồ bị ruồng bỏ” nay trở thành “ái khanh lòng Ta hỡi”; “phận bạc duyên đơn” trở nên “duyên thắm chỉ hồng”. Nguyên do của cuộc biến đổi tuyệt vời này là do tình yêu Thiên Chúa đối với Sion, trung thành với hôn ước Người đã cam kết với dân. Và khi ấy Giêrusalem còn là niềm vui cho chính Chúa.

TÓM KẾT

          Bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, bài đọc 1 cho ta thấy Thiên Chúa đã tỏ lộ cho Sion biết mối tình và dự tính yêu thương của Chúa đối với dân. Ngang qua việc hồi phục Giêrusalem, Thiên Chúa chẳng những bày tỏ vinh quang của Người cho dân mà còn cho chư dân nữa. Riêng đối với dân, Thiên Chúa muốn dân xác tín rằng đối với Chúa số phận của dân là quí giá. Chuyện đánh phạt chỉ là giai đoạn, nhằm cảnh tỉnh, làm cho Sion được vinh hiển trước mặt chư dân.

          Một khi đã vượt qua được sự tối tăm của hiện tại và nhận ra được dự tính yêu thương và vinh quang Thiên Chúa, Sion được mời gọi sống ngay trong hiện tại ơn gọi là “hiền thê” của Chúa, trở thành niềm hân hoan cho Chúa của mình. Đó là số phận huy hoàng, đích thực của dân và cũng là phương thức Chúa bày tỏ vinh quang của Người cho chư quốc.

TIN MỪNG: Ga 2,1-11

Văn mạch

Tin Mừng Gioan mở đầu bằng lời tựa 1,1-18, chiêm ngắm Đức Giêsu trong thần tính từ nguyên thủy của Người. Tiếp theo là phần mở đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu:1,19-2,12. Vài học giả phân chia giai đoạn này làm 7 ngày gọi là tuần lễ đầu tiên của cuộc tạo thành mới, so chiếu với 7 ngày của cuộc tạo thành cũ. Yếu tố giúp nhận ra 7 ngày là: “Hôm sau” (x.1,29.35.43) và “ngày thứ ba” (x.2,1) (xem CGKPV- Tân Ước- trang 399t).

          Bài đọc 1 trích đoạn cuối của tuần khai mạc: Đức Giêsu và các môn đệ cùng Đức Mẹ dự tiệc cưới Cana. Nhờ lời can thiệp của Mẹ, Đức Giêsu đã cứu đôi hôn phối khỏi cảnh ngặt nghèo: tiệc cưới hết rượu giữa chừng, Đức Giêsu biến nước thành rượu. Đây là dấu lạ khai mạc nhiệm cục mới nhằm bày tỏ vinh quang của Đức Giêsu, nghĩa là quyền năng thần linh của Người (11b), góp phần biến các môn đệ thành những con người mới, những con người tin vào Người (11c).

CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH

  1. Khung cảnh của trình thuật (Ga 2,1-3a)

  • Sự việc: 1 tiệc cưới diễn ra tại Cana xứ Galilê

  • Thời điểm: “ngày thứ ba”

  • Các khách mời đặc biệt: Thân mẫu Đức Giêsu, Giêsu và các môn đệ

  • Tình huống bất ngờ: hết rượu giữa chừng

  • Đức mẹ nhạy cảm nhận ra ngay điều đó

“Tiệc cưới” hình ảnh biểu tượng ám chỉ bữa tiệc cánh chung. Lúc đó Chúa biểu lộ trọn vẹn quyền năng ban cho phận “con người (nước) được thông phần Thiên tính (rượu) hoàn tất công trình cứu độ. Mầu nhiệm này được Đức Giêsu thực hiện trước nơi bản thân Người trong mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh: nhân tính Đức Giêsu được tôn vinh làm KURIOS mà tôn vinh Cha (Pl 2,6-11). Trong Thánh lễ, mầu nhiệm này được Giáo Hội nhắc lại lúc linh mục pha 1 giọt nước vào rượu và đọc: “ước gì cho chúng con được thông phần thiên tính của Đấng đã đoái thương đảm nhận nhân tính của chúng con”.

Ngày thứ ba”: ám chỉ xa đến biến cố phục sinh, lúc ấy nhân tính được tôn vinh làm Chúa. Trong văn mạch Gioan, đây còn là ngày chót trong tuần sáng tạo (Ga 1,19-2,11) ngày Thiên Chúa hoàn tất công trình sáng tạo (St 2,1-2). Đó là ngày Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn vinh quang Thiên tính đưa mọi sự đến chỗ hoàn tất trọn vẹn, Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.

“Thiếu rượu”: tiệc cưới bao gồm ăn uống, nhảy múa, giải trí kéo dài trong 7 ngày, đôi khi kéo dài gấp đôi, tụ tập hết thảy bà con họ hàng, thường là bên nhà chồng (Xavier Léon – Dufour – “Bối cảnh Tân Ước”- trang 62). Nếu không dự trữ sẽ thiếu rượu ngay. Các ngày sau không có rượu thì quả là mất mặt.

        Tuy nhiên nếu lượng rượu đến 6 chum tương đương 600 lít (Ga 2,6) thì quá nhiều. Chi tiết này cho thấy sự phong phú quá mức của ân huệ cánh chung.

2.Phản ứng của Đức Mẹ và của Đức Giêsu trước tình huống bất ngờ (Ga 2, 3b-5)

  • Sự nhạy cảm và quan tâm của Mẹ đối với tình cảnh khốn cùng của đôi bạn trẻ:

   Mẹ can thiệp với Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi” (3b)

  • Phản ứng lạ lùng của Đức Giêsu (4):

  • Lối xưng hô bất thường: “Này người phụ nữ”.

  • Chuyện đó can gì đến bà và con?”: khước từ?

  • Lý do: “Giờ con chưa đến”.

  • Lòng tín thác của Mẹ Maria: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo(5)

CHÚ THÍCH:  * “Họ hết rượu rồi”  (x. Bài Suy Niệm”

                         * “Này người phụ nữ” = “gunai”….    (x. Bài Suy Niệm)

* “Chuyện này có can chi đến con và Mẹ” = Ti emoi Kai soi: công thức này còn được gặp thấy ở Mt 8,29; Mc 1,24; Lc 8,28; được đặt vào miệng quỷ phản đối Đức Giêsu đã ra tay trừ diệt chúng, giải cứu con người trước kỳ hạn qua các phép lạ; Nhưng Đức Giêsu vẫn cứ can thiệp vì lợi ích của nhân loại. Ở đây công thức này được đặt trên miệng Đức Giêsu hàm ý: tại sao Mẹ lại nhờ con làm công việc bày tỏ vinh quang thiên tính trước kỳ hạn (tức Thập Giá), tuy nhiên vì lợi ích nhân loại – ở đây môn đệ và đôi hôn phối – con cũng can thiệp cuộc bộ làm một dấu lạ như hình ảnh báo trước điều con sẽ thực hiện rõ ràng nơi thập giá và phục sinh.

* “Giờ con chưa đến”: đây là giờ thập giá và phục sinh như đã nói trên. Xem thêm CGKPV Tân Ước trang 403 nốt “h”.

       Xem thêm: * “Giờ con chưa đến”   (Bài Suy Niệm)

                           * “Người bảo gì các anh cứ làm theo”  (Bài  Suy Niệm).

  1. Dấu lạ Đức Giêsu tỏ mình, đưa kẻ tin vào nhiệm cục mới (Ga2, 6-11)

  • Sự kiện: có 6 chum nước dùng vào việc thanh tẩy (6)

  • Diễn tiến: Lệnh truyền của Đức Giêsu và sự tuân phục mau chóng của gia nhân.

– Đức Giêsu bảo gia nhân đổ nước đầy 6 chum, rồi đem nước tới quản tiệc

– gia nhân vâng lời mau chóng (7-8)

– đấu lạ âm thầm xảy ra: nước hoá rượu cực ngon (9a)

– phản ứng của quản tiệc (9b-10)

  • Kết quả, mục đích dấu lạ đầu tiên: Thiên Chúa bày tỏ vinh quang và môn đệ TIN (11)

Đối với người do thái, các nghi lễ thanh tẩy là 1 trong những đặc điểm chính của việc sống đạo (x. Mc 7,3-4). 6 chum này là đựng nước để người ta rửa chân (ám chỉ được đón tiếp), và tay (trước khi ăn) trước khi nhập tiệc. Vào thời Đức Giêsu, đây là một nghi thức tôn giáo (x. Mc 7,3-4 và Nouveau dictionnaire biblique_ “Bain”).

Hãy đổ ĐẦY… và họ đổ ĐẦY tới miệng: hàm ý sự thay đổi tận căn, toàn điện. Để dấu lạ xảy ra tốt đẹp, phần đóng góp của gia nhân không nhỏ: họ tin lời Mẹ và vâng phục Đức Giêsu cách mau chóng, vô điều kiện. Nhìn lại lịch sử nhân loại: Adam đã làm hư tất cả vì không tin vào lệnh Chúa; Để tái thiết, Thiên Chúa cần những con người tin vô điều kiện. Ở đây, người đầu tiên tin là Mẹ Maria, rồi Mẹ đã truyền niềm tin đó cho gia nhân và họ cũng đã tin vô điều kiện, rồi kết quả chung cuộc là tất cả môn đệ đều TIN. Cộng đoàn thiên sai cơ bản, cộng đoàn chỉ gồm những kẻ tin đã được thiết lập nơi đây. Cộng đoàn ấy sẽ được Đức Giêsu công khai mở rộng trong giai đoạn rao giảng, và chính thức thiết lập cho ai dám theo Đức Giêsu đến cùng, tận chân thập giá: Đấng đang chịu đóng đinh công khai tuyên bố “Đây là con của bà; Đây là Mẹ của anh”.

Phản ứng của quản tiệc cho thấy phẩm chất của “rượu” mới này cực ngon, vượt hẳn mọi tưởng tượng, những gì có trước. Điều này hàm ý nhiệm cục mới do Đức Giêsu mang lại không gì có thể sánh được. Số lượng rượu dồi dào, cho không nói lên tính nhưng không, quảng đại của hồng ân Thiên Chúa do Đức Giêsu mang tới. Chi tiết này không biết rõ lúc nào nước hoá rượu cũng gợi lên mầu nhiệm phục sinh: không ai biết Đức Giêsu phục sinh lúc nào, chỉ khi được hiện ra (khi nếm) thì mới biết.

Nếm rượu ngon, viên quản tiệc không bận tâm tới nguồn gốc của rượu, ông cứ tưởng là chàng rể mua sẵn và dấu tới giờ phút này, vì trong tiệc cưới việc cung cấp rượu là bổn phận của chàng rể. Bản văn muốn làm nổi bật phẩm tính tuyệt vời của rượu mới, đồng thời cho thấy sự bất toàn và sự thiếu năng lực của cơ chế để đáp trả nhu cầu của thực khách. Nếu chỉ với rượu cũ, đám tiệc sẽ rơi vào bế tắc. Chỉ với can thiệp của Đức Giêsu, với rượu mới do Người tặng ban thì bữa tiệc mới đạt được ý nghĩa trọn vẹn, thực khách mới hưởng trọn niềm vui tròn đầy. Nhưng cần lưu ý “rượu mới” này có liên quan mật thiết với những yếu tố cấu thành nghi lễ cũ.

Dấu lạ đầu tiên: hiểu theo nghĩa thường, đây là phép lạ thứ nhất trong loạt những phép lạ Đức Giêsu sẽ làm. Nhưng trong tiếng Hi lạp, cụm từ này có thể dịch sát: “Đức Giêsu đã làm SỰ KHỞI ĐẦU này của những dấu lạ”. “SỰ KHỞI ĐẦU” là thuật ngữ mở đầu sách Sáng Thế và Tin Mừng thứ 4. Theo nghĩa đó thì “dấu lạ đầu tiên” hàm ý đó là bước khởi đầu, là uyên nguyên của mọi dấu lạ mà Đức Giêsu sẽ làm sau này, là kiểu mẫu cho mọi dấu lạ khác. Nói cách khác mọi dấu lạ khác phải được hiểu dưới ánh sáng của dấu lạ này, nghĩa là mọi dấu lạ của Tin Mừng thứ 4 đều có cùng đích đưa ta đi từ nhiệm cục cũ qua nhiệm cục mới; Mọi dấu lạ đều nhằm bày tỏ vinh quang chung cuộc của Đức Giêsu nhằm báo trước Giờ của Người, Giờ khai mạc kỷ nguyên ân sủng thay thế cho thời của Lề Luật (x. Ga 1,14.17).

Người tỏ vinh quang và môn đệ tin vào Người: Đức Giêsu biểu lộ vinh quang thần linh dấu lạ thay đổi bản chất sự vật, chỉ 2 lần: Nước thành Rượu và trong Nhất Lãm là Bánh Rượu thành Mình Máu của Người. Chất thể còn đó, bản chất đổi thay, Thiên Chúa đưa con người vào vận hội mới. Dấu lạ này gợi lên hình ảnh NGÔI MỘ TRỐNG (Ga 20,1-8):

Ngôi mộ vốn là biểu tượng của sự chết thì nay với Đức Giêsu nó trở thành dấu chỉ của sự sống mới; Và khi thấy dấu chỉ này, người môn đệ Chúa yêu và cả Phêrô nữa đã TIN vào Người. Và đây là chủ điểm của toàn bộ Tin Mừng thứ 4: Ngôi Lời tỏ lộ vinh quang thần linh qua nhân tính để AI (nhân tính: nhiệm cục cũ) TIN Người thì được ban cho quyền làm con Thiên Chúa (thông phần thiên tính: nhiệm cục mới) (Ga 1,9.12.14 so với 20,30.31)

TÓM KẾT

Ngang qua những hình ảnh mang đầy tính biểu tượng: “ngày thứ ba”, “tiệc cưới”, “Giờ”. Tin Mừng đưa chúng ta vào kỷ nguyên mới của nhiệm cục cứu độ: kỷ nguyên của ân sủng và lòng tin. Đức Giêsu bày tỏ vinh quang luôn tràn ân sủng (RƯỢU dư tràn) và con người đón nhận với lòng tin. Trước tiên là lòng tin của Mẹ Maria, vượt trước cả dấu chỉ, đã góp phần thúc đẩy Đức Giêsu khai mạc sớm thời kỳ ân sủng và kết thúc là lòng tin của các môn đệ đã nhận ra vinh quang Thiên Chúa nơi con người Giêsu ngang qua những dấu lạ Người sẽ làm mà hôm nay là bước khởi đầu.

Tin Mừng mời chúng ta từ bỏ, đúng hơn là tận dụng cái cũ (nước, 6 chum đá, thanh tẩy) để nhận ra cái mới đã đến trong Đức Giêsu, nhận ra vinh quang Thiên Chúa trong phận người của Đức Giêsu và tin Người để được hưởng hồng ân chung cuộc: được làm con Thiên Chúa.

Frère Pierre Đình Long FSC