Bài 1
St 2, 7-9; 3, 7-11 ; Mt 4, 1-4
Chủ đề: Mùa chay là mùa biện phân, chiến đấu và hậu quả:
*St 3, 1-7: Hai nguyên tổ đã sa ngã: “mắt hai người mở ra và họ thấy mình trần truồng”.
*Mt 4, 11: Đức Giêsu thắng ma quỷ và “quỷ bỏ đi và có các sứ thần đến hầu hạ người”.
Chúng ta bước vào Chúa Nhật I Mùa Chay năm A. Chủ đề Lời Chúa hôm nay là CÁM DỖ và CHIẾN ĐẤU với NHỮNG HỆ QUẢ TƯƠNG ỨNG kèm theo.
Cơn cám dỗ cốt lõi, lớn nhất, nguy hiểm nhất mà con người mọi thời, mọi nơi phải đương đầu đó là cơn cám dỗ được Kinh Thánh biểu tượng qua câu chuyện “ăn TRÁI CẤM” trong vườn Eden. Đó là cơn cám dỗ xúi dục con người nghe theo lời Rắn xuyên tạc, nghi ngờ ý định yêu thương của Thiên Chúa để rồi đi lệch đường lối Chúa, không nghe Lời Người khước từ ý định của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Đó là cơn cám dỗ không muốn sống thân phận làm con người như Chúa đã ban mà đòi NGAY TỨC KHẮC (chỉ cần ăn trái cấm là được ngay) “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4-5).
Lời Chúa muốn con người phải biết sử dụng đúng TỰ DO mà Thiên Chúa đã thương ban để biện phân, chọn lựa sống theo Ý Chúa, cộng tác với Chúa hoàn thành dự tính của Người trên toàn nhân loại lẫn trên từng cuộc đời mỗi người.
Thực tế, cuộc sống phàm nhân là một cuộc CHIẾN ĐẤU KHÔNG NGỪNG. Chiến đấu để tồn tại, lớn lên và đạt mức hoàn thiện. Nhưng thế nào là HOÀN THIỆN và phải hoàn thiện bằng cách nào? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một câu đáp: Tất cả đều quy về “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”; Mọi sự đều phát xuất từ CHA, quy hướng về CHA và CHA cũng đã dự định sẵn đường lối để thực thi Ý định đó.
Muốn con người thực sự là “hình ảnh Chúa” (St 1, 26-27), Thiên Chúa bày tỏ dự tính của người cho nhân loại (St 1, 28-29; 2, 16-17) và ban cho con người trí khôn, tự do để có thể trọn quyền biện phân và chọn lựa.
Tuy nhiên Lời Chúa còn long trọng nhắc nhở chúng ta một điều quan trọng. Giữa Thiên Chúa và con người còn có một nhân vật thứ ba, tên dối trá chuyên gia phá đám, tìm đủ mọi cách tách rời con người khỏi Thiên Chúa: Đó là QUỶ, con RẮN, là SATAN. Mưu mô của Quỷ là XUYÊN TẠC Ý CHÚA, DỤ CON NGƯỜI SỬ DỤNG SAI TỰ DO CHÚA BAN để TỪ CHỐI Ý CHÚA TRÊN CUỘC ĐỜI MÌNH hay nói nôm na theo đạo đức là không vâng lời Thiên Chúa, là tội kiêu ngạo, muốn làm theo những ước muốn đột xuất trồi hiện lên nơi bản thân mình (do con Rắn xúi dại gây nên) hơn là theo lệnh truyền từ thuở sáng tạo của Thiên Chúa; cho rằng ý nghĩ đột xuất của mình khôn ngoan hơn dự tính từ muôn đời của Thiên Chúa.
Chính vì thế, con người phải CHIẾN ĐẤU CHỐNG CÁM DỖ. Chiến đấu hết mình và liên tục. Tự sức mình, con người đã thua (bài một); May thay Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đồng hành cùng chiến đấu với nhân loại, bảo đảm phần thắng cho chúng ta (Tin Mừng), để đưa nhân tính chúng ta đến chỗ Phục Sinh được thông phần Thiên Tính: kết Mùa Chay là Phục Sinh. Vậy Lời Chúa của Chúa Nhật 1A Mùa Chay nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta là có QUỶ: Satan luôn rình ta sơ hở để làm hại ta.
Nhưng cũng có Chúa luôn đồng hành với ta để vô hiệu hóa mọi mưu mô ma quỷ. Mùa Chay là mùa chiến đấu: Cùng chung liên kết với Chúa Giêsu để chiến đấu, nhờ sự trợ lực của Chúa Thánh Thần để thể hiện Ý Cha.
Bài đọc 1 trích từ sách Sáng Thế kể lại cuộc chiến giữa “Rắn”, Satan và con người :
– Trước tiên, Rắn XUYÊN TẠC lệnh Chúa: Chúa chỉ cấm ăn trái cây “cho biết điều thiện điều ác” thì Rắn nói Chúa cấm “không được ăn HẾT MỌI trái cây ….”
– Người nữ đã bị lôi cuốn rơi vào cạm bẫy là mở lời tranh luận cách vô bổ với Rắn vì lời Rắn gợi lên đâu phải là đúng với Lời Chúa đã nói, đó là một xuyên tạc. Và một khi đã bị cuốn vào vòng xoáy tranh luận, người nữ mất dần sự cảnh giác… vòng dây thòng lọng bắt đầu xiết dần.
– Và người nữ bị đánh lừa đã trả lời sai lệnh Chúa “…..Trái cây Ở GIỮA VƯỜN
( Sai: So St 2, 9b )….không được ăn, không được ĐỘNG tới….”( So St 2, 17 ). Điều đáng tiếc là Adam có mặt ở đó lại không trợ giúp vợ mình vì lệnh truyền là Chúa nói trực tiếp cho Adam lúc chưa có Người Nữ.
– Cuối cùng, do đầu óc đã bị lời Rắn xuyên tạc, lại chiến đấu đơn độc, nên Người Nữ đã NGỤY BIỆN; Tự ý hái trái cấm ăn; Rồi ngay tức khắc bà trở thành cánh tay nối dài của RẮN, cám dỗ Adam ăn; Còn Adam thay vì chỉnh sửa cho vợ thì lại ĐỒNG LÕA. Ở đây, Adam và vợ đánh mất đi cái ưu thế mà Chúa ban cho con người: tính CỘNG ĐOÀN. Thiên Chúa muốn dựng nên nhân loại với bản tính cộng đoàn là để tương trợ, bổ khuyết cho nhau. Ở đây hai người đã không kết hiệp với nhau mà lại chiến đấu đơn lẻ.
Kết quả: Mất tất cả, trần truồng xấu hổ, trở thành tội nhân ( Rm 5, 15a.19a).
Tin Mừng thuật lại cuộc chiến đấu của Đức Giêsu và Quỷ:
– Chúa chiến đấu dưới sự dẫn dắt của Thần Khí ( Mt 4, 1. 11).
– Nền tảng Chúa dựa vào để chiến đấu là LỜI CHÚA. Quỷ cũng áp dụng cùng một kế như ở Eđen là xuyên tạc Lời Chúa ( 4, 3. 6 ), dối trá ( 4, 9 ). Nhưng Chúa đã dùng Lời Chúa tinh tuyền, (tức là Lời Chúa chưa bị xuyên tạc, bóp méo bởi những thế lực không thuần phục Thiên Chúa) để phá tan âm mưu của Quỷ.
– Qua đó Chúa Giêsu định hướng cho cuộc sống mới của nhân loại:
* Người ta sống nhờ mọi Lời Thiên Chúa phán ra ( 4, 4 )
* Con người đừng thử thách Chúa ( 4, 7 )
* Và chỉ thờ phượng mình Chúa mà thôi ( 4 , 10 ).
Thế là nhân loại được HỒI PHỤC, NÂNG CAO. Trong bài đọc 2, thơ Rm tóm kết tuyệt vời hệ quả 2 cuộc chiến ( Rm 5, 15 – 18 . 19 ).
Với Đức Giêsu, nhân loại đã chiến thắng. Tuy nhiên số phận của từng cá nhân, từng nhóm là vẫn tùy thuộc vào sự chiến đấu và chọn lựa của con người:
– Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người.
– Chúa ban đủ điều kiện để giúp con người chiến thắng.
– Kết thúc cuộc chiến cho bản thân từng người như thế nào là phần quyết định của chúng ta.
* Hãy sống tốt Mùa Chay:
– Luôn tỉnh thức vì ma quỷ luôn rình hãm ta.
– Kiên trì chiến đấu dưới sự hướng dẫn của Thần Khí.
– Luôn đồng hành với Đức Giêsu, bám vào Lời Chúa cùng với Đức Giêsu và các chi thể của Người thực thi Ý Chúa Cha.
– Luôn đồng hành với Đức Giêsu, bám vào Lời Chúa cùng với Đức Giêsu và các chi thể của Người thực thi Ý Chúa Cha.
Bài 2
Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. Người ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, sau đó, Người thấy đói ( Mt 4,1-2 ). Khi ấy Tên Cám Dỗ đến và nói …(cc 3.6.9 ) …Đức Giêsu đáp ( cc 4.7.10 ) … Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người ( c.11 ).
Phụng vụ bước vào Chúa Nhật I Mùa Chay. Toàn thể Giáo Hội đang ráo riết chuẩn bị xác hồn để thông hiệp cách hiệu quả nhất vào mầu nhiệm trung tâm của đức tin Công Giáo: cuộc thương khó và phục sinh của Đức Giêsu Kitô sẽ cử hành trong Tam Nhật Vượt Qua.
Giáo Hội thúc đẩy con cái mình tích cực, cùng với Đức Giêsu, xây dựng lại các mối tương giao tình người đã được Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại trong công trình sáng tạo: với bản thân ( chay tịnh ), với tha nhân ( chia sẻ , bố thí ), với Thiên Chúa ( cầu nguyện ).
Vẫn ý thức bản thân mình tội lỗi, đáng trách … Nhưng Mùa Chay giúp chúng ta thấy Tình Chúa vượt hơn tất cả nên tín hữu can đảm chấp nhận thực trạng tội nhân đáng buồn của mình để mở rộng con người mình ra với chính bản thân, với tha nhân và với Thiên Chúa.
Bản thân sẵn sàng nhận tội, thú nhận sự trần truồng của mình; trong tương quan với tha nhân không đổ lỗi, coi nhau là thù nghịch nữa mà sẵn sàng ra tay tương trợ nhau ( chia sẻ bác ái ), hồi phục lại tình người nguyên thủy ( xương tôi, thịt tôi ), và nhất là không còn trốn chạy, sợ hãi Thiên Chúa nữa mà can đảm tìm về lại với Người ( cầu nguyện ).
Con đường trở về, hồi phục này không bằng phẳng, dễ đi … Vì quỷ ma luôn rình rập, chờ có cơ hội là xúi chúng ta đi lạc xa đường Chúa ( cám dỗ ); Rồi bản thân con người yếu đuối, không dễ làm chủ được các đam mê, khuynh hướng nổi loạn vẫn còn tiềm phục trong ta mà chúng ta phải không ngừng tỉnh táo khắc phục (chiến đấu ). Và dù có Chúa luôn đồng hành nâng đỡ, nhưng thân phận nhân loại cũng đã từng hằn vết ngã thua nên nguy cơ tái phạm là rất lớn, không ngừng đe dọa loài người.
Vì vậy “tỉnh táo” và “sẵn sàng chiến đấu” luôn là lời Giáo Hội nhắc nhở con cái mình: “ … hậu quả của nguyên tội trên bản tính bị suy yếu và nghiêng chiều về sự dữ, vẫn tồn tại nơi con người và đòi buộc con người phải CHIẾN ĐẤU luôn mãi” ( GLHTCG 405 ). Và trong kinh Phụng Vụ của Thứ Tư Lễ Tro, lời nguyện khai mạc gọi Mùa Chay là “mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng”. Những hình thức khổ chế, sám hối, hy sinh, … không phải là các xiềng xích, áp chế trói buộc con người, nhưng thực ra đó là những “bài tập” tạo nên nơi tín hữu các năng lực thiêng liêng để ngày thêm vững mạnh hầu chiến thắng ác thần ( x. CGKPV – Mùa Chay – phần riêng Thứ Tư Lễ Tro – lời nguyện ).
Để làm nổi bật lên ý nghĩa “chiến đấu” của Mùa Chay, Tin Mừng cả ba năm ABC của Chúa Nhật I luôn đề cập đến trích đoạn nói về cuộc chiến đấu của Đức Giêsu trong hoang địa, đạp đầu Rắn, mở đường chiến thắng cho nhân loại.
Đặc biệt trong năm A, chủ đề “cám dỗ – chiến đấu” càng được tô đậm nét với bài đọc 1, thuật lại cuộc chiến giữa con người và con Rắn diễn ra ngay trong Vườn Địa Đàng. Tiếc thay con người đã thua trận, kéo theo không biết bao nhiêu hệ quả bất hạnh cho nhân loại. Tuy nhiên mọi hậu quả đó đã được Thiên Chúa khắc phục trong Đức Giêsu cách tuyệt vời, và được Thánh Phaolô đúc kết lại cách hoàn hảo trọn vẹn trong một suy tư súc tích về ơn cứu độ được hoàn tất trong cuộc chiến thắng của Đức Giêsu phục hồi lại những hậu quả của trận thua của Adam:
“Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. ( Bài đọc 2, Rm 5, 18-19 )
Lời Chúa hôm nay mời gọi nhân loại tiếp tục chiến đấu trong thân phận làm người, để làm người theo Tình Yêu Quan Phòng bao la của Thiên Chúa đã an bài. Chính trong tuân phục cộng tác với Thiên Chúa để hoàn tất dự tính của Chúa nơi ta, nhân loại sẽ đạt được vinh quang thần linh mà Thiên Chúa đã dọn sẵn để ban tặng cho ai thần phục Người.
Bài đọc 1 : St 2, 7-9; 3,1-7
Bài đọc 1 trích từ Sách Sáng Thế gồm hai trình thuật không liên tục nhau. Phần đầu St 2, 7-9 thuật lại việc Yavê Thiên Chúa đã dựng nên “con người” (Adam) từ bụi đất. Tuy nhiên yếu tố chính để cho Adam thành một sinh vật sống động lại chính là HƠI THỞ CỦA THIÊN CHÚA được Chúa thổi vào Adam . Tiếp đó, Thiên Chúa đã dựng nên cho Adam một môi trường sống bao gồm mọi thứ cây trái làm lương thực, kèm với “Cây Trường Sinh” ở giữa vườn để thông ban cho con người sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Và bên cạnh đó, Chúa cũng dựng nên “cây cho biết điều thiện điều ác” để nhắc nhở và mời gọi con người hãy đón nhận “phận làm người” đã được Chúa yêu thương ban tặng. Phần thứ hai, St 3,1-7 là trích đoạn nói về cuộc chiến đấu giữa rắn và cặp vợ chồng nhân loại đầu tiên. Rắn đã xuyên tạc ý định yêu thương của Thiên Chúa; Gợi lên nơi “người nữ” lòng nghi ngờ đường lối của Thiên Chúa; khơi dậy ý tưởng bất chính không muốn đón nhận phận người mà lại đòi “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”. Trong khi đó phía con người chỉ biết hành động theo phần “bụi đất” mà quên đi “hơi thở của Thiên Chúa” nơi mình; lại còn không tận dụng nét mạnh của ơn gọi làm người: tính cộng đoàn ( ở một mình không tốt ), Adam đã để vợ chiến đấu với Rắn cách đơn lẻ, lại còn đồng lõa với vợ trong những sai trái. Vì thế con người đã bại trận, bị rơi vào hoàn cảnh khốn cùng. Thiên Chúa đồng hành phục hồi phẩm giá con người trong Đức Kitô ( x. St 3,15 ). Điều đó sẽ được Thiên Chúa thực hiện như trong bài đọc Tin Mừng thuật lại. Thiên Chúa, Giáo Hội mời con người tiếp tục chiến đấu.
1/ Con người, tạo vật đặc thù độc đáo của Thiên Chúa ( St 2, 7-9 ):
Trích đoạn này thuộc về bản văn thứ hai ( St 2, 4b-25 ) của Kinh Thánh nói về việc Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đặc điểm của bản văn này là sử dụng những hình ảnh rất người, rất bình dân để mô tả các hoạt động của Thiên Chúa. Đó là “lối viết như nhân hóa” Thiên Chúa ( anthropomorphisme ).
Theo bản văn này, nét đặc thù làm cho con người khác biệt hẳn và trội vượt hơn hẳn mọi thọ tạo khác, đó là con người vừa là vật chất vừa là thần linh :
*Vật chất : “Thiên Chúa lấy BỤI TỪ ĐẤT nặn ra con người”. Cách nói như nhân hóa, hàm ý phần hữu hình nơi con người có cùng bản chất với các tạo vật hữu hình khác ( so St 2,7 với St 2,19 ). Nếu con người để cái phần “bụi đất” này làm chủ con người mình thì số phận chung cuộc của cá nhân, cũng như của nhân loại sẽ là “trở về cùng bụi đất” ( St 3,19 ); nhưng nếu không có phần này thì con người không còn là người nữa mà là “ma” ( x. Lc 24,39 ).
* Thần linh: Cái làm cho tượng đất Adam nên một sinh vật sống động là SINH KHÍ do Thiên Chúa thổi vào mũi con người. Như vậy Thiên Chúa đã ban cho con người một đặc ân, vừa là một sứ mạng là làm cầu nối giữa thế giới vật chất và Thiên chúa: nhờ con người mà cả vũ trụ này được đẹp tươi hơn và có thể thành lời ca khen và tôn vinh Thiên Chúa. Yếu tố thần linh mà con người có được là nhờ CHÚA THỔI sinh khí vào. “THỔI” có nghĩa là thông ban, là làm cho sống nhờ Thần Khí ( x. Ed 37,9; Ga 20,22 ). Vậy khi nuông chiều theo xác thịt, con người không còn là “sinh vật” như ý Chúa, đánh mất bản tính của mình ( nhân gian hay ví các kẻ ấy là sống theo “thú tính”, như súc vật ).
* Thiên Chúa quan phòng : Đây là ý thần học chính của St 2. Đọc hết St 2, ta dễ dàng nhận ra Thiên Chúa tạo dựng mọi vật là cho con người để con người được hạnh phúc trong Chúa. “Hạnh phúc”, không là sản phẩm do con người sáng tạo ra, con người không tự mình tìm ra được hạnh phúc, nhưng đó là hồng ân của tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Chúa thấy Adam “ở một mình không tốt”, nên mới dựng nên vạn vật và một “trợ tá tương xứng”; nhờ vậy Adam mới thấy đời hạnh phúc, hoan lạc, có ý nghĩa. Rồi Chúa còn ban cho “cây trường sinh” giúp con người vĩnh tồn trong hạnh phúc Chúa đã ban.
* Cây biết thiện ác: Cách nói trên diễn tả thực tại này là có một ranh giới giữa Thiên Chúa và các loài thụ tạo, và con người phải tôn trọng, không được tùy tiện vượt qua, nếu bất tuân sẽ gây nên các hậu quả đáng tiếc. Con người không thể lấy mình làm chuẩn mực luân lý cho mình và cho mọi thụ tạo khác được. Tất cả phải quy chiếu vào Thiên Chúa là chuẩn mực tối thượng. Đòi “ăn trái cây biết thiện ác” là muốn lấy bản thân mình thay thế vị trí của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, lẫn công cuộc duy trì vũ trụ trong an hảo; Điều đó hàm ý là muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, muốn một thế giới không cần Thiên Chúa!?
Chúa tạo dựng nên “cây biết thiện ác”, giới thiệu cho con người rồi căn dặn đừng ăn trái của Nó. Điều đó muốn nói rằng Thiên Chúa tôn trọng con người, tôn trọng tự do mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Còn lệnh cấm, thực ra là một cách Thiên Chúa quan phòng NHẮC NHỞ con người một chân lý liên quan đến chính bản thân, vận mạng con người và đến mọi mối tương quan mà con người phải có đối với Thiên Chúa và với dự tính yêu thương của Người ( có thể so sánh “lệnh cấm trên” với một tập tài liệu hướng dẫn thực hành, một cẩm nang ứng dụng của nhà điều hành gởi cho các khách hàng để họ có thể sử dụng sản phẩm cách tốt nhất, không bị xảy ra những sự cố, tác hại đáng tiếc do thiếu hiểu biết gây ra). “Cây trái cấm” nhắc rằng:
– Con người là thọ tạo, là giới hạn, có được là nhờ vạn vật ( bụi đất ), nhờ Thiên Chúa can thiệp nắn ra, thổi hơi vào; không tự mình hiện hữu và tồn tại.
– Trong tương quan với Thiên Chúa: con người chỉ trở nên sinh vật nhờ được Thiên Chúa thông ban sinh khí, không có sinh khí thần linh ấy, con người chỉ là tượng đất. Loại bỏ hoặc cắt đứt nguồn sinh khí thì việc con người trở về lại bụi đất là chuyện đương nhiên. May thay, Thiên Chúa đã cắt đứt quá trình đoạn giao, tuyệt thông ấy, Thiên Chúa nối lại tình thân và hoàn thiện tất cả trong Đức Giêsu ( x. St 3,15 ).
Vậy “lệnh cấm” không phải là công cụ áp bức mà Thiên Chúa dùng để kềm hãm con người trong dốt nát, lầm lạc, nhưng là phương thức Thiên Chúa biểu lộ tình yêu quan phòng: mặc khải cho con người chân lý về bản chất phàm nhân và giúp con người đặt mình vào đúng vị trí trong tương quan với Thiên Chúa và với vũ trụ. Đón nhận và sống tốt mặc khải ấy chính là cội nguồn chân phúc cho nhân loại.
Và đó cũng là căn nguyên của cơn cám dỗ sẽ được đề cập ở phần sau: Cám dỗ là khuynh hướng, là sự mê hoặc lôi kéo con người chọn giải pháp khước từ dự tính của Thiên Chúa trên cuộc đời mình; Để khắc phục con người, phải cậy dựa vào ơn Chúa, CHIẾN ĐẤU để cho Thiên Chúa “thực hiện nơi ta điều Thiên Chúa muốn”. (x. Lc 1, 38 ).
2/ Cám dỗ ( Rắn ) và chiến đấu ( con người ) ( St 3, 1-7 )
* “Rắn” là một biểu tượng
Trong Sách Sáng Thế, đến chương 3, “Rắn” mới xuất hiện trên sân khấu bản văn và được mô tả với những đặc điểm như sau:
-
Nó xuất hiện cách đột ngột và ngay lập tức nắm thế chủ động, điều khiển mọi biến cố, diễn biến qua mặt Adam lẫn vợ.
-
Nhưng dù sao, Nó vẫn là tạo vật của Thiên Chúa, rồi đặc nét của Nó được Kinh Thánh nhấn mạnh ở đây là “xảo quyệt”. Về sau Kinh Thánh mô tả đa dạng hơn với những từ tương đương: kẻ ganh tỵ ( Kn 2,24 ); chuyên gia nói dối, cha của mọi gian trá ( Ga 8,44 ); kẻ lừa đảo ( 2Cn 11,3 ), kẻ mê hoặc thiên hạ ( Kh 12,9).
-
Nó dư kiên nhẫn, biết chờ thời cơ, hành động hợp lý đúng lúc. Nó mai phục, rình sẵn ở Cây Trái Cấm, hoàn toàn chủ động sẵn sàng, chỉ chờ con người mon men tới là ra tay “quăng lưới”.
-
Nó rất ma giáo, không đối thoại với Adam là người trực tiếp nhận lệnh cấm từ Thiên Chúa, mà dẫn dụ Người Nữ để dễ bề xuyên tạc ý Chúa hơn.
Còn cách chung trong nhiều nền văn hóa, Rắn là biểu tượng của sản lực, khôn ngoan, chữa lành; nhưng nọc rắn cũng mang tới cái chết ( x. Ds 21,6 so với 21,9).
Vậy trước một biểu tượng có quyền năng và quỷ quái như thế, cần luôn tỉnh táo, sẵn sàng chiến đấu, đừng để sa vào “lưới” của Nó.
-
Cuộc gặp gỡ “Rắn” và “người” ngay chân “cây trái cấm”:
Tất cả các chi tiết vừa lướt qua trên nhằm mô tả một thực trạng muôn thuở, thâm sâu của nhân loại: khao khát khôn ngoan, hiểu biết mọi sự, mong muốn trường tồn, được chữa lành, luôn khỏe mạnh ( các ý nghĩa tích cực của biểu tượng “Rắn” ); kèm theo cơn cám dỗ muốn tự quyết định mọi sự, lấy mình làm chuẩn mực cho mọi hành vi luân lý, đạo đức nhân loại, không cần lệ thuộc vào Thiên Chúa ( Cây Trái Cấm ). Cái khao khát ấy vốn không đi ngược lại với bản tính con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên thay vì tìm lời giải đáp nơi Thiên Chúa, là cội nguồn của mình, thì nhân loại lại bị mê hoặc trước dáng vẻ bề ngoài của biểu tượng Rắn và Cây Trái Cấm nên đã kéo nhau đến “chỗ không nên đến” và đã bị “phục kích” bởi Rắn. Không biết Rắn đã tận dụng được “sự xảo quyệt nhất” của Nó như thế nào mà đã tách con người ra khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa và tách rời hai người ra riêng rẽ để đưa cả hai vào “cạm bẫy”. Cuộc “chiến đấu” đơn lẻ, từng người – dù cả hai đứng bên nhau – đã đưa nhân loại đến thất bại.
-
Cám dỗ : sự quyến rũ đến từ bên ngoài
Rắn xuất hiện đột ngột và dành nắm quyền chủ động, con người bị lôi cuốn theo sự dẫn dắt của Rắn. Tưởng rằng đang bênh vực Thiên Chúa, hóa ra đang đút đầu vào bẫy.
Trước tiên, Rắn xuyên tạc thánh ý của Thiên Chúa: Chúa cấm ăn tất cả mọi trái cây; Và Người Nữ bị lôi cuốn vào cuộc tranh luận do Rắn dẫn dắt.
Càng tranh cãi, Người Nữ càng bị lôi cuốn dần rơi vào sai lầm :
-
Cây Trái Cấm không phải là “cây ở giữa vườn”.
-
Chúa chỉ “cấm ăn”, không hề nói “cấm động đến”.
-
Đòn quyết liệt: gieo vào lòng Người Nữ sự nghi ngờ lời Thiên Chúa: “ không chết chóc gì đâu!”
Tới đây , bản văn cho Rắn rút lui. Nó không hề xúi hái trái mà ăn.
-
Chiến đấu : cuộc chiến nội tâm
Còn một mình Người Nữ đứng bên Cây Trái Cấm! Adam đứng cạnh đó, nhưng “có cũng như không”, dường như không có mặt. Người nữ đơn độc chiến đấu. Cuộc chiến được trình bày như một cuộc chiến nội tâm diễn ra trong lòng Người Nữ.
-
Khởi sự giác quan bị lôi cuốn: “thấy trái cây đó…”( Mắt )
-
Tình cảm bị thuyết phục : “ăn thì ngon, trông đẹp mắt”
-
Lý trí chiều theo: “đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”
-
Ý chí quyết định: “ liền hái trái cây mà ăn” ( St 3,5 )
Yếu tố thứ nhất đưa tới thất bại : lãng quên phần linh thánh nơi mình là “HƠI THỞ CỦA THIÊN CHÚA”: con người trở nên sinh vật là nhờ “sinh khí Thiên Chúa” ( 2,7 ), nhưng ở đây con người chỉ làm theo các quan năng thể xác.
Tội đã phạm ( Người Nữ đã ăn trái cấm ); Nhưng hậu quả, và bộ mặt hung tàn của “Tội” chưa lộ ra. Vì còn một yếu tố có thể phục hồi mọi đổ vỡ: Adam chưa ăn, chưa lên tiếng. Tiếc thay Adam tiếp tục “im lặng cách đáng sợ” và sa ngã luôn: tội đồng lõa.
Yếu tố thứ hai làm nhân loại thua trận: không vận dụng được ưu thế sức mạnh của đời sống cộng đoàn mà Thiên Chúa đã ban tặng: “con người sống một mình không tốt”. Và Thiên Chúa đã ban cho con người một “trợ tá tương xứng” và lập nên một cộng đoàn bất khả phân ly với sức thu hút còn mạnh hơn cả tình yêu huyết thống cha mẹ – con cái.
Tiếc thay hai nguyên tổ đã không HỢP LỰC CHIẾN ĐẤU CỘNG ĐOÀN, hai vị chiến đấu đơn độc không phối hợp. Kết quả: THUA trắng. và HẬU QUẢ:
-
Hậu quả đầu tiên không phải là chuyện đạo đức, luân lý phái tính như ta thường phán xét lầm: TRẦN TRUỒNG ! không ! Ăn xong , Người Nữ vẫn tỉnh bơ ! Lại còn hái trái mời Adam dùng thử.
-
Hậu quả đầu tiên là sự biến chất bản thân của Người Nữ kéo theo sự biến chất của mối tương quan thân tình giữa hai người với nhau. Dù chưa lộ ra ngoài, nhưng đời sống sức mạnh cộng đoàn đã bị rã mục chờ sụp đổ. Và đã sụp đổ thê thảm khi Adam im lặng đón ăn Trái Cấm do Người Nữ trao.
-
Hậu quả thê thảm đầu tiên là Người Nữ không còn là “trợ tá tương xứng” cho Adam nữa mà trở thành kẻ cám dỗ, quật ngã Adam. Nói một cách tồi tệ, đoạn trường hơn nữa là Người Nữ đã trở thành cánh tay nối dài của Rắn, trở thành kẻ nội gián, “người trợ tá của Rắn” quật ngã Adam.
-
Hậu quả nguy hiểm nhất về phía con người là tình người có nguy cơ bị hủy diệt. Các tội về luân lý, hình sự… chỉ là phụ. Đức Giêsu đến chủ yếu là để khôi phục lại nhân phẩm, tình Chúa, tình con người.
-
Khía cạnh tập thể, liên đới trong tội của phận người.
Tội lỗi chỉ lộ hết nét bạo tàn và quyền lực của Nó khi Adam ĐỒNG LÕA, nhận và ăn trái cấm do Người Nữ đưa. Lỗi của Adam là không đảm nhận trọn được vai trò của người thủ lãnh: Lẽ ra ông phải hợp lực giúp đỡ Người Nữ, giúp chỉnh sửa các lần đối đáp sai lầm, ngăn cản Bà hái ăn và đỉnh điểm là đừng đồng lõa. Ở đây KHÍA CẠNH TẬP THỂ CỦA TỘI là một nhắc nhở quan trọng. Nhiều lúc con người bị rơi vào cơn cám dỗ đạo đức cá nhân, chỉ lo cho phần mình được rỗi mà quên khía cạnh ơn cứu độ cho Toàn Nhiệm Thể.
Nếu Adam không ăn trái cấm thì điều gì xảy ra? Câu hỏi vô nghĩa, vì thật sự ông đã ăn. Tuy nhiên trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã cho chúng ta lời giải đáp chung cuộc:
Đức Giê su là Adam mới, cuộc chiến thắng của Người hồi phục toàn bộ nhân loại tội lỗi và còn ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Đây là khía cạnh liên đới của kiếp người trong tội cũng như trong ân phúc và vai trò quan trọng của người thủ lãnh. Đây cũng là nét lạc quan hy vọng Kitô giáo: Đức Giêsu là ĐẦU đã chiến thắng, bảo đảm cho phần rỗi toàn nhân loại. Phaolô đã chiêm nghiệm được chân lý này và chia sẻ cho chúng ta ( Rm 5,15.18.19 : Bài đọc 2 ).
3/ Tóm kết :
Mùa chay là mùa chiến đấu cả thể xác lẫn thiêng liêng để chấp nhận được Thánh Ý của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, để nhận được duy chỉ Thập Giá là hồng ân cứu độ và sống trọn phận làm người là con đường duy nhất đưa nhân loại và cả vũ trụ đạt tới chóp đỉnh vinh quang của công trình sáng tạo theo như Thánh Ý Thiên Chúa. Trong tinh thần đó của Mùa Chay, Chúa Nhật I nhấn mạnh đến chủ đề cám dỗ và chiến đấu.
Bài đọc 1 thuật lại cuộc chiến đấu đầu tiên của nhân loại:
Chiến đấu với ma quỷ xảo quyệt luôn ganh tỵ tìm cách đẩy con người đi lệch khỏi đường lối của Thiên Chúa. Chiến đấu với bản thân để thờ lạy đường lối của Chúa trên cuộc đời, vận mạng của mình; Để nhận ra kiếp người với tất cả những hệ lụy thật sự là hồng ân tuyệt vời lớn lao nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng. Do đó, đây là cuộc chiến đấu để chọn lựa: Tin hoặc nghi ngờ Thiên Chúa; Từ đó chọn phó thác theo đường lối Thiên Chúa hoặc tìm giải quyết mọi sự theo tầm khôn ngoan nhân loại. Rất tiếc con người đã thất trận trong cuộc chiến này. Nguyên do chính là vì con người đã chiến đấu bằng chỉ những năng lực tự nhiên mà quên mất nguồn sinh lực của mình nằm nơi “hơi thở” của Thiên Chúa: lúc diễn ra cuộc chiến, bản văn trình bày Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng; Công trình sáng tạo bị con người nói lệch ( cây biết thiện ác ở giữa vườn ); Lệnh cấm cũng bị sai (… không được đụng tới ).
Để phục hồi nhân loại, đích thân Con Thiên Chúa phải đảm nhận kiếp người. Và trong tinh thần chiến đấu của Chúa Nhật I Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đã lao vào cuộc chiến, nhưng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần ( Mt 4,1 ) nên đã chiến thắng. Nhân loại được phục hồi ! Và còn hơn nữa, công trình sáng tạo được đưa tới mức viên mãn: Được làm Con Thiên Chúa. Đó là điều Tin Mừng hôm nay sắp công bố cho chúng ta.
Một yếu tố khác cũng là nguyên do chính khiến con người thất bại: THIẾU TINH THẦN CỘNG ĐOÀN. Cặp đôi nguyên thủy đã không thể hiện được tính liên kết cộng đoàn mà Chúa đã khắc ghi trong bản thể nhân loại: “con người sống một mình không tốt”.
Để phục hồi, Đức Giêsu đã đến và liên đới chặt chẽ với nhân loại qua việc cùng nhận chung số phận tội nhân với họ, cùng chịu phép rửa như họ … và ngay lúc đó “cửa Trời mở ra” và Ba Ngôi Thiên Chúa cùng đến hiện diện giữa dân Người.
TIN MỪNG : Mt 4, 1-11
Cuối bài đọc 1, một màu tối đen bao trùm trên toàn nhân loại: tổ tông sa ngã, tất cả tưởng chừng vô phương cứu chữa. May thay tình yêu quan phòng của Thiên Chúa không rời bỏ nhân loại: Thiên Chúa đã chuyển màu đen tang tóc thành “màu tím” hy vọng, biểu lộ lòng chung thủy của Thiên Chúa, nền tảng để nhân loại hy vọng. Ngay lúc tổ tông sa ngã, lời hứa cứu độ đã cùng lúc được tỏ bày ( St 3, 15 ). Mọi sự được Thiên Chúa hoàn tất trong Đức Giêsu.
Về phía nhân loại, Adam và Eva đã thua trận; nhưng Giêsu, một người con của Người Nữ đã thắng trận, và mọi sự đã hồi phục ( bài đọc 2 ). Trong suy niệm bài 1, ta đã nhận ra các yếu tố làm con người thất bại. Giờ đây trong Tin Mừng, ta cùng suy niệm yếu tố nào giúp Đức Giêsu toàn thắng.
-
Việc Đức Giêsu thực hiện là dự tính từ nguyên thủy của Thiên Chúa (St 3.15).
-
Và giữa bao bội phản của con người, Thiên Chúa luôn khẳng định lại dự tính của Người qua các ngôn sứ: Is 40,3
-
Và khi đến thời đến buổi, qua miệng Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa công bố giờ Người “làm trọn đức công chính” đã tới ( Mt 3,13-15 ).
Như vậy những gì Đức Giêsu làm là CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA chứ không phải là những ước vọng phàm nhân như hai nguyên tổ.
Đường lối đó của Thiên Chúa được cả Ba Ngôi đồng loạt biểu lộ qua biến cố Đức Giêsu được Gioan làm phép rửa. Khát vọng từ bao đời của nhân loại được thỏa đáp: “các tầng trời mở ra”; Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống dư tràn trên Đức Giêsu; Tiếng từ trời công bố Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ( Mt 3, 16-17 ).
Chính trong tư cách vừa là “con người”, vừa là “Thiên Chúa” đó ( so với Adam: vừa là cát bụi, vừa là hơi thở, Thần Khí Thiên Chúa ) Đức Giêsu tiến vào hoang địa chiến đấu với Quỷ, hoàn tất công trình của Thiên Chúa cho nhân loại. Người thực sự là “Đấng Đạp Đầu Rắn” mà Cha đã hứa. Và Người đã thực thi ý Cha theo cung cách Cha muốn chứ không hỗn láo “hái trái cấm mà ăn” như hai nguyên tổ. Cùng nhau chiêm ngắm công trình của Đức Giêsu trong THÂN PHẬN LÀM NGƯỜI trọn vẹn để thi hành ý Cha, phục hồi nhân loại.
Vậy Đức Giêsu LÀ CON NGƯỜI, nhưng được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng là MÊSIA, Người được Thiên Chúa ban tràn đầy THẦN KHÍ và được công nhận là CON THIÊN CHÚA. Vậy BẰNG CÁCH NÀO, Đức Giêsu biểu lộ căn tính, sứ mạng, ơn gọi của Người để phục hồi nhân loại ? Tin Mừng hôm nay là câu đáp: bằng cách LÀM NGƯỜI. Và ba cơn cám dỗ là các thử thách mà Người phải chiến đấu vượt qua để biểu lộ sự quyết tâm chọn lựa con đường LÀM NGƯỜI để ý Cha được thể hiện.
Cả ba bài đọc hôm nay đều đồng quy rõ rệt về chủ đề đó:
-
Bài đọc 1: hai nguyên tổ là người mà đòi làm Chúa. Mất tất cả !
-
Tin Mừng: Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng quyết định đi trọn con đường làm người theo ý Cha. Hồi phục tất cả!
-
Sự thật ấy được Phaolô chiêm niệm trong bài đọc 2. ( Rm 5,15-18-19 )
1/ Tình trạng của Đức Giêsu khi bước vào cuộc chiến đấu ( Mt 4, 1-2 )
-
Được Thần Khí dẫn vào hoang địa …( c.1 )
Hai nguyên tổ chỉ chiến đấu với các năng lực con người, Đức Giêsu đi vào cuộc chiến dưới sự hướng dẫn của Thần Khí. Người hoạt động đúng như là một con người đích thực như Thiên Chúa đã tạo dựng ( St 2,7: chính Thần Khí làm tượng đất Adam thành sinh vật ). Và nhờ được Thần Khí hướng dẫn, Quỷ không sao cám dỗ, gài bẫy được Người. Qua cuộc chiến này, Đức Giêsu chọn con đường “Thờ lạy Ý Cha” làm lẽ sống cho mình (Mt 4,10 ).
Có nhiều cơ hội và động lực thúc đẩy việc thực hành chay tịnh. Nhưng trong mọi trường hợp đều nhằm tự luyện trong đức tin một thái độ khiêm nhường để có thể tiếp nhận hành động của Thiên Chúa và tự đặt mình trước sự hiện diện của Người … Nếu Thần Khí đã thúc đẩy Đức Giêsu ăn chay, chính là muốn Người mở đầu sứ mệnh của Đấng Mêsia bằng một hành vi đầy phó thác, đầy tin tưởng vào Cha của Người. ( x. ĐNTHTK “ chay tịnh” I )
“Được Thần Khí dẫn” lại còn “chay tịnh” trước khi đối đầu với cơn cám dỗ nên Đức Giêsu đã chiến thắng. Còn “Người Nữ” trong bài đọc 1 hành động theo xác thịt; Còn dân Do Thái vừa đặt chân vào sa mạc, đất tự do thì đã liền đòi ngay nước uống ( X. Xh 15, 22-24 ; 17, 2-3 ), đòi ăn ( Xh 16,2-3 ), họ không tin vào Chúa, không tuân thủ luật Người ( Xh, 16, 4b ) nên đã thất bại.
Sau một thời gian chay tịnh, nhịn ăn thì “đói” là chuyện tự nhiên của một con người bình thường. Đức Giêsu được trình bày như một con người bình thường đang phải đối đầu trực diện với nhu cầu cơ bản nhất của xác phàm: cần lương thực để sống. Như vậy, Đức Giêsu đang chiến đấu trong thân phận một con người đích thực đang trong tình trạng thân xác cần được bồi dưỡng gấp sau thời chay tịnh. Trong Matthêu, tên cám dỗ chỉ ập đến sau 40 ngày Đức Giêsu chay tịnh và Người đang ở đỉnh cao của cơn đói, và thân xác đang ở tình trạng căng thẳng đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu cấp bách nhất. Đó là thời điểm tinh thần, ý chí, lý trí suy yếu nhất; Trái lại, cảm tính, bản năng thấp hèn đang dâng cao.
Vậy Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến đấu như một con người đích thực với những nhu cầu vật chất cấp thiết đang vây bủa. Nguy cơ nghiêng chiều về hướng đáp trả các nhu cầu khẩn trước mắt là rất lớn. Thế nhưng toàn thể con người Đức Giêsu đang đặt dưới sự điều động, hướng dẫn của Thần Khí nên Đức Giêsu đã vượt thắng trong cuộc chiến đấu.
2/ Ba cơn cám dỗ ( Mt 4, 3-10 )
-
Diễn tiến chung của toàn bộ cơn cám dỗ được Matthêu trình bày giống hệt như diễn tiến của cơn cám dỗ ở Vườn Địa Đàng :
-
Mở đầu là việc xuất hiện đột ngột của một nhân vật mới ( lần đầu tiên xuất hiện): “bấy giờ, Tên Cám Dỗ đến gần Đức Giêsu”.
Danh xưng của nhân vật mới này là “Tên Cám Dỗ”, so với Mt 4,1 hắn chính là “Quỷ”. Chính “Quỷ” tức Satan, Con Rắn xưa, dưới vỏ bọc bề ngoài danh xưng là “Tên Cám Dỗ”, đang tấn công Giêsu. Vậy trận chiến phục hồi phẩm giá nhân loại đã được Chúa hứa ( St 3,15 ) bắt đầu.
-
Vừa đến, “Tên Cám Dỗ” vội chiếm ngay vai trò chủ động
-
Bằng cách mở miệng xuyên tạc lời của Thiên Chúa. Ở đây dung mạo “Kẻ Cám Dỗ” của y lộ rõ hơn qua việc Hắn xúi Đức Giêsu làm điều Hắn đề nghị.
-
Đáp trả của đối tượng bị cám dỗ:
-
Adam và vợ đã bị Rắn “xỏ mũi” lôi vào tranh luận …
-
Đức Giêsu bẻ gãy bẫy của Quỷ bằng một đoạn Lời Chúa bắt Quỷ phải câm họng.
-
Hậu quả: cơn cám dỗ bị phá hủy.
Nhưng Quỷ không dễ dàng chịu thua, Hắn đeo bám Đức Giêsu lập lại mưu mô đến ba lần.
-
Cuối cùng Đức Giêsu phải dùng đến chóp đỉnh của đức tin độc thần: chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa thôi để vạch trần bộ mặt Hắn là “Satan” và đuổi Hắn xéo đi.
Tạm kết: chỉ có Lời Chúa và Thần Khí là chỗ tựa vững chắc giúp ta chiến thắng được cuộc chiến dai dẳng với Satan.
2.1 / Cám dỗ 1 : truyền đá hóa bánh.
Cả ba cơn cám dỗ đều có nhiều lối suy niệm, ứng dụng khác nhau. Chỉ gợi lên một suy niệm đơn giản dựa trên chủ đề của Lời Chúa hôm nay: CHIẾN ĐẤU ĐỂ CHỌN LỰA:
-
Hoặc chọn làm theo dự tính từ ngàn đời của Thiên Chúa.
-
Hoặc chọn tìm thỏa mãn các nhu cầu riêng đột xuất trồi hiện.
Trong cơn cám dỗ 1:
-
Đức Giêsu đang đói ! Đó chỉ là nhu cầu cá nhân nhất thời vì cái đói của Đức Giêsu là do Người TỰ NGUYỆN ĂN CHAY. Do đó hết kì ăn chay thì xuống núi, bỏ ra chút tiền, mua tí lương thực… thế là ổn thỏa. Hà cớ gì phải dùng đến quyền năng của Thiên Chúa ( vì sức con người không thể hóa đá ra bánh được) để chỉ giải quyết một vấn đề riêng hoàn toàn nằm trong tầm giải quyết của sức người.
-
Ý định từ muôn đời của Cha sai Đức Giêsu đến trần gian là để “đạp đầu Rắn” hồi phục lòng tin của con người vào Lời Chúa.
Vì thế Đức Giêsu bác ngay lời xúi dại của Quỷ và tỏ lộ việc của Người là làm cho nhân loại tin vào Lời Chúa, là lương thực đích thực cho loài người.
2.2/ Cơn cám dỗ 2: nhảy xuống từ nóc đền thờ sẽ vẫn bình an.
– Ý định từ muôn đời của Thiên Chúa là phù hộ người công chính để họ có thể bền vững trong đức tin trong đạo đức cho dù họ đang ở trong tình trạng khốn cùng.
Cuộc sống trần gian của con người là ngắn ngủi, nhưng Chúa không hề phá bỏ định luật thời gian do Chúa dựng nên để kéo dài tuổi thọ, hay ban bình an ngắn ngủi cho con người.
-
Trước mắt, Đức Giêsu là người đang khỏe mạnh, sống bình an. Quỷ lại xúi Đức Giêsu tạo ra những nguy cơ dại dột, ngược lại với những định luật sáng tạo của Thiên Chúa để thử xem TÌNH YÊU QUAN PHÒNG của Thiên Chúa có gìn giữ Người hay không?
Đó là cơn cám dỗ nghi ngờ tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, bằng cách tạo nên những bất hạnh, bất ổn phi lý để thử thách tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Đức Giêsu bác bỏ lời xúi dại và nghiêm khắc nhắc nhở lại lệnh “đừng ăn trái cấm” qua lời sách Luật: “ngươi chớ thử thách Yavê là Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16 ). Nghĩa là đối với Thiên Chúa mọi vật đều là thụ tạo không thể tự ý bịa ra những tình huống đi ngược lại với định luật sáng tạo để thử thách tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2.3/ Cơn cám dỗ 3: Thờ lạy Quỷ.
– “Tên Cám Dỗ” lộ ra bộ mặt đểu cáng, lừa đảo của Nó: mọi nước, mọi vinh quang trần thế là của Nó, trong khi đó thực sự tất cả mọi sự đều là của Chúa.
– Và ý định từ muôn đời của Thiên Chúa là ban tặng tất cả cho nhân loại. ( St 1,26.28 ; 2,19-20 )
– Giờ đây, Quỷ lừa đảo Đức Giêsu, xúi Người đem Nó thay thế vào vị trí của Thiên Chúa, tức là loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi công trình sáng tạo của Người. Cơn cám dỗ Rắn đã lừa 2 nguyên tổ ở Eden, giờ được Nó táo tợn nói trắng ra với Đức Giêsu. Thế là bộ mặt thật của Nó bị vạch trần: Satan , xéo đi! Và sứ điệp được lập lại cho nhân loại mọi thời là “bái lạy, THỜ PHƯỢNG một mình Thiên Chúa mà thôi”.
3/ Kết quả chung cuộc ( 4,11 )
Quỷ hoàn toàn thất bại: bỏ Đức Giêsu mà đi.
Nhân loại được hồi phục : “các sứ thần đến hầu hạ Đức Giêsu”. Cách nói trên hàm ý là nhân loại đã được phục hồi nhờ Đức Giêsu, một con người trong nhân loại chúng ta, đã chiến thắng. Thật vậy, trong vườn Eden khi con người bại trận đã bị đuổi xa Thiên Chúa và vai trò của sứ thần là canh giữ cây sự sống, không cho hưởng ân phúc của cây sự sống ( St 3,24 ).
Giờ đây, sứ thần lại đến hầu hạ Đức Giêsu, một con người đang đói. Điều đó hàm ý nhân loại đã được phục hồi, tương quan thiên cung – trần thế đã được nối lại.
Trong Đức Kitô, nhân loại đã bảo đảm phần thắng. Nhưng thời gian vẫn còn trôi, mỗi cá nhân, mỗi đoàn thể đều phải vẫn tiếp tục CHIẾN ĐẤU, số phận mỗi người nằm trong tay chúng ta.
-
Tóm kết:
Tin Mừng hôm nay cho thấy cách thức mà Đức Giêsu đã chọn để hoàn thành vai trò Mêsia đã được Chúa trao phó: Con đường làm theo ý Chúa tức là con đường LÀM NGƯỜI. Qua chiến thắng, Đức Giêsu đã tỏ mình là nhân loại mới, Israel mới mở ra con đường cứu độ chiến thắng ma quỷ. Người đã nhận diện tên cám dỗ khiến hắn không biến hóa vào đâu được nữa; Người tuyệt đối tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa trên mình vào vũ trụ; Nhờ đó thảm họa lớn nhất là cái chết đã được Người biến thành cửa ngõ bước vào phục sinh, vào cuộc sống mới.
Mùa Chay mời ta kết hợp với Đức Giêsu để chống lại cám dỗ và chiến thắng. Đó là điều cần để bước được trên đường thập giá hầu dẫn tới phục sinh. Nhờ chay tịnh và bám vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ và chiến thắng.
-
Nối kết: Chủ đề chính là CÁM DỖ – CHIẾN ĐẤU và HẬU QUẢ.
Và phối hợp với bài đọc 1 cần lưu tâm đến yếu tố cộng đoàn.Trong dự tính của Thiên Chúa, loài người phải là cộng đoàn theo hình ảnh Thiên Chúa là cộng đoàn BA NGÔI.
Frère Pierre Đình Long FSC