Bài 1
Gn 3,1-5.10; Mc 1,14-20
Chủ đề: Sám hối và ơn thứ tha cứu độ.
* Giôna 3,10: Dân Ninivê bỏ đường gian ác mà trở lại… và Thiên Chúa đã không giáng phạt họ nữa.
* Mc 1,15: Triều đại Thiên Chúa đã tới gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Lời Chúa hôm nay gồm ba yếu tố đan chéo vào nhau tạo nên sứ điệp của Chúa Nhật III B Mùa Thường Niên.
-
Yếu tố thứ nhất là lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu lộ ngang qua sứ điệp mà Thiên Chúa gửi tới cho con người.
-
Yếu tố thứ hai là thái độ đáp trả từ phía con người trước sứ điệp mà Thiên Chúa đã đi bước trước gửi đến cho con người.
-
Yếu tố thứ ba là chính là hoa trái của hai yếu tố trên. Đó là ơn cứu độ. Cuộc sống con người thăng hoa.
Bài đọc một thuật lại việc Thiên Chúa sai ngôn sứ Giôna đi loan báo lệnh truyền sẽ hủy diệt thành Ninivê cho vua dân của thành biết. Thoáng đọc qua bài đọc một, ta tưởng rằng Giôna rất ngoan ngoãn, dễ bảo, mau chóng thi hành lệnh của Đức Chúa. Thực ra trích đoạn làm bài đọc một là lệnh truyền lần thứ hai của Chúa cho Giôna sau khi ông trốn chạy lệnh truyền thứ nhất của Chúa.
Nội dung của án lệnh Chúa truyền cho Giôna phải báo cho dân Ninivê: “bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ”. Thế nhưng sau đó kết quả đã không xảy ra như lời Giôna loan báo: Thành được Thiên Chúa tha thứ. Bởi vì khi nghe án lệnh, dân Ninivê từ vua đến dân đã tin vào Thiên Chúa, hoán cải, công bố sám hối, chay tịnh, bỏ đường tội lỗi mà quay về cùng Thiên Chúa; Do đó Thiên Chúa đã chạnh lòng thương, thứ tha tội lỗi và không giáng phạt xuống trên thành Ninivê như đã loan báo.
Như vậy trong bài đọc một, án lệnh cho thành Ninivê lại trở thành sứ điệp cứu độ; lời tuyên án lại trở thành lời cảnh cáo kêu mời sám hối. Những phương thức trách phạt lắm lúc lại là dấu chỉ của lòng nhân hậu: Thiên Chúa cảnh cáo mạnh kêu mời con người thức tỉnh, sám hối để được thứ tha. Bên trong án lệnh dữ dằn ấy, dân vua Ninivê đã đọc ra sứ điệp tình yêu ấy, nhận ra được lòng nhân lành của Thiên Chúa đang mong chờ con người sám hối để được tha thứ.
Tính phổ quát của ơn cứu độ được đề cao ở đây: lòng nhân hậu của Thiên Chúa không bị “nhốt”, giới hạn trong một lãnh thổ, một dân.
Bài đọc một cũng đề cao lòng tin của dân ngoại: họ có khả năng sám hối nên cũng được hưởng ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhờ đó số phận dân Ninivê đổi mới.
Trong bài đọc Tin Mừng, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu lộ tuyệt vời nơi chính con người và sứ mạng của Đức Giêsu: đích thân Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa xuống trần loan báo sứ điệp yêu thương cho đám dân bị người Do Thái Giuđê coi khinh như là dân ngoại. Đức Giêsu không nói sứ điệp răn đe mà Người yêu thương kêu mời sám hối vì thời hồng ân Chúa hứa ban đã tới rồi: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Và trong ý định của Thiên Chúa, sứ điệp ấy không dành riêng cho Galilê, tin vui phải được loan báo cho đến tận cùng thế giới. Vì thế, một khi đã chấp nhận thân phận làm người, Con Thiên Chúa cũng cần đến người cộng tác để tiếp tục công cuộc Người đã khởi công. Do đó, lòng nhân hậu của Thiên Chúa lại có sáng kiến KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỆ TIÊN KHỞI, biến đổi họ thành CỘNG TÁC VIÊN của Người. Phần thứ hai của bài Tin Mừng thuật lại ơn gọi của bốn môn đệ tiên khởi.
Bốn ông đang làm công việc mưu sinh, thường nhật của mình; Đức Giêsu đột ngột đến với các ông; Người mời gọi: “các anh hãy đi theo tôi”; Kèm theo một lời đoan hứa làm các ông ĐỔI ĐỜI: “tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”; Và các ông bỏ công việc mà đi theo Người.
Sự hiện diện và sứ mạng Đức Giêsu trao cho các môn đệ qua muôn thế hệ là DẤU CHỈ VỮNG BỀN của lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với nhân loại: qua các thế hệ môn đệ, Tin Mừng được loan đi khắp nơi; Nhân loại mọi nơi mọi thời đều được nghe ơn cứu độ và được cứu.
Phần các môn đệ, số phận họ được ĐỔI MỚI nhờ ơn gọi và sứ vụ mà Đức Giêsu trao ban cho họ: Vừa là công việc cũ: CHÀI LƯỚI; vừa là sứ vụ mới: LƯỚI NGƯỜI thay vì lưới cá.
Tất cả tín hữu đều được Chúa gọi mời. Hãy tận dụng những gì đã được Chúa ban để làm công cuộc mới của Chúa. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta là đáp lời trở thành cộng tác viên của Chúa mà bước đầu tiên là bỏ “chài lưới” mà đi theo Người.
Bài 2
“Thời kỳ đã mãn…Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng…Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho anh thành những ngư phủ chài lưới người” (Mc 1,15.17)
Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những họat động công khai đầu tiên của Đức Giêsu theo sách Tin Mừng Marcô. Sau lời công bố Mc 1,1 giới thiệu nội dung Tin Mừng là con người Giêsu. Đó chính là Đấng Mêsia mà dân Chúa bao đời đợi trông và hơn nữa đó là Con Thiên Chúa. Niềm vui tuyệt vời ấy đã được Isaia loan báo từ xa xưa nay đã thành thực tại qua sự xuất hiện của Gioan trong hoang địa rao giảng kêu mời sám hối (Mc 1,2-4). Dân chúng nô nức kéo đến với ông, sám hối, thú tội và Gioan làm phép rửa cho họ, chuẩn bị lòng họ để đón Đấng Kitô Con Thiên Chúa.
Tin Mừng Marcô giới thiệu về Vị Thiên Sai này cực ngắn: chỉ có hai câu bày tỏ hai nét đặc thù về Đấng Thiên Sai, nhưng cũng rất mơ hồ:
-
Đấng đó đến sau Gioan, nhưng cao trọng hơn Gioan bội phần (1,7).
-
Đấng đó có sứ mạng làm phép rửa cho dân trong Thánh Thần (1,8).
Đấng đó là ai? Tin Mừng Marcô cho ngay câu đáp: Đức Giêsu âm thầm lộ diện ngay lập tức sau lời giới thiệu của Gioan như là câu đáp cho lời công bố mơ hồ của Gioan.
-
Đấng cao trọng đến độ Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” chỉ là một người dân bình thường xuất thân từ làng quê hèn mọn Nadaret (Tin Mừng Marcô không nói gì tới Bêlem, không đề cập gì đến cội nguồn hoàng tộc của Giuse, của Đức Giêsu, trái lại nhiều lần Marcô nói Đức Giêsu là người Nadaret: 1,24; 10,47; 14,67; 16,6), Người tên là Giêsu. Sự thật lạ thường ấy lại được Thiên Chúa chứng nhận qua cuộc thần hiện khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa.
-
Người dân quê bình thường gốc làng Nadaret ấy cũng chính là Đấng nối kết đất trời, Đấng tràn đầy Thần Khí (Mc 1,10), là Con của Thiên Chúa (1,11), là Đấng đánh bại Satan phục hồi phẩm giá của nhân loại (1,13).
Sau phần giới thiệu ngắn gọn, tổng quát về con người của Đức Giêsu – là Tin Mừng – như thế, Marcô bắt đầu khai triển về những hoạt động công khai của Đức Giêsu. Chính trong tư cách “là Giêsu” – “là Kitô” – “là Con Thiên Chúa” mà Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ. Chỉ trong một ngôi vị duy nhất mà “Giêsu – Kitô – Con Thiên Chúa” hoạt động thống nhất, bất khả phân ly; Chính vì thế mà mọi hoạt động của Đức Giêsu đều có giá trị cứu độ, đều mang lại ơn giải thoát cho nhân loại.
Việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, theo Marcô, là nối kết hoạt động hiện tại của Người với truyền thống tôn giáo Cựu Ước được Marcô quy tụ lại trong hoạt động của Gioan Tẩy Giả: Đức Giêsu tiếp tục công trình “rao giảng” của Gioan (Mc 1,4.7), “ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê “rao giảng” Tin Mừng” ngay (1,14), công cuộc “rao giảng” không bị gián đoạn.
Vay mượn từ Matthêu: nội dung rao giảng của Đức Giêsu và của Gioan là như nhau (Mt 3,2.50; 4,17b); Rồi về sau, các môn đệ của Đức Giêsu cũng đi loan báo cùng một nội dung (x.Mt 10,7; Cv 2,38; 3,19; 8,22).
Và việc làm ngay tiếp theo cũng là tiếp nối truyền thống, nhưng hướng về tương lai: Đức Giêsu chọn mời các môn đệ (Mc 1,16-20) để đào tạo và chuẩn bị cho các ông nhắm vào sứ vụ tương lai (Mc 3,14-15).
Tin Mừng hôm nay là lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu và những lời Người ngỏ với các môn đệ tiên khởi mời gọi họ đi theo Người, thiết lập cộng đoàn thiên sai.
-
Tiếp nối truyền thống: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Công việc “rao giảng” không bị ngắt quãng. Khác với Mt 4,12-13: khi nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Đức Giêsu LÁNH qua miền Galilê…để ứng nghiệm lời ngôn sứ; Rồi tiếp theo đó thì Đức Giêsu mới BẮT ĐẦU rao giảng (Mt 4,17).
Như vậy trong tương quan với biến cố “Gioan bị nộp” và Đức Giêsu phải lui về Galilê, thì Matthêu nhấn mạnh tới khía cạnh “ứng nghiệm lời ngôn sứ” và nét ứng nghiệm là nơi chốn mà Đức Giêsu khởi đầu sứ mạng rao giảng: Dơvulun và Neptali.
Còn Marcô thì không lưu tâm đến nơi chốn khởi sự rao giảng mà lại nhấn mạnh tới tính liên tục của việc rao giảng: ngay khi Gioan vừa chấm dứt sứ vụ do bị nộp thì Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng ngay (Mc 1,14).
Còn Luca thì không đề cập gì tới việc Gioan bị nộp trong cùng một văn mạch là việc rao giảng và chọn các môn đệ tiên khởi.
2. Thời đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã tới gần:
Sau khi sa ngã, nhân loại đã được Thiên Chúa thương ban cho lời hứa cứu độ: St 3,15; Trong dòng lịch sử của dân Chúa, việc Đấng Cứu Tinh mau đến luôn là nỗi khát vọng hiện sinh, nóng bỏng của Israel. Vì thế cuộc sống của toàn dân Chúa, cũng như của từng cá nhân luôn bao gồm hai chiều kích hiện tại và tương lai quyện lẫn vào nhau: Cái hiện tại dù thế nào đi nữa thì vẫn luôn đáng sống vì dân Chúa lẫn cả nhân loại đều có một niềm cậy trông, hy vọng; Và cái tương lai dựa trên lời Chúa hứa luôn là ngọn đèn sáng ở cuối con đường hầm tăm tối. Hiện tại luôn sống trong hy vọng và chuẩn bị để đón thời tươi sáng chắc chắn sẽ đến trong tương lai.
“Thời đã mãn” có nghĩa là điều hy vọng sẽ tới trong tương lai, bây giờ đang là sự thật hiển nhiên trước mắt. Thời khao khát, ngóng chờ đã chấm dứt: Thiên Chúa đã có mặt, viếng thăm dân Người. Vị Vua khai sáng triều đại cánh chung, triều đại thiên sai đã đến. Đó là Tin Mừng mà dân Cựu Ước hằng trông mong và Gioan Tẩy Giả loan báo đã gần tới (Mt 3,2-3; Mc 1,2). Giờ đây, Đức Giêsu công bố “tới rồi” (x.Lc 4,21 “HÔM NAY đã ứng nghiệm…). Cái “hôm nay”, cái “Tin Mừng đã và đang đến đó” chính là con người Đức Giêsu, gốc từ Nadaret (Mc 1,9): Thời đại Tin Mừng, Triều Đại Thiên Chúa đến rồi trong Đức Giêsu “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa” (Mc 1,1).
3. “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”:
Vậy cái hiện tại bây giờ không còn là “CHỜ” nữa mà phải đổi đời, lo đón cái mới, TIN và sống Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Đức Giêsu và tuân theo các điều Người dạy bảo. Để đổi mới được con người mình, để nhận ra và tin được sứ điệp của Đức Kitô, điều trước tiên phải làm là SÁM HỐI.
“Sám hối” trong tiếng hy lạp là METANOIA, nghĩa đen là “nghĩ khác trước”, “đổi ý”, “đổi tâm tình, não trạng”, là hối tiếc, hối hận vì trước kia mình đã có những sai lầm…. Ở đây phải hiểu “sám hối” theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng theo ngôn từ của ngôn sứ Giêrêmia: Thay đổi hướng đi, triệt để quay về lại với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào cuộc sống mới. Cụ thể là TIN vào con người tầm thường mang tên Giêsu đến từ làng quê Nadaret, cúi mình chịu phép rửa trên sông Giođan; Nghe và đón nhận để sống toàn bộ sứ điệp mà Người sẽ công bố sau này.
Tóm lại lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong sách Marcô là một công thức thu tóm toàn bộ nội dung Tin Mừng này: Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đã đến, đó là Giêsu Nadaret; với sự xuất hiện của Người “Triều Đại Thiên Chúa đã tới rồi”. Vấn đề bây giờ không còn là ngóng trông chờ đợi gì nữa mà là mở rộng lòng tin nhận Người như là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Đời sống phải đổi thay, bậc thang giá trị sống phải lấy con người Giêsu, giáo huấn của Giêsu làm chuẩn mực: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2); “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Từ nay, đối với người môn đệ không còn gì khác hơn là Đức Giêsu Kitô. Người là CHÚA, nơi Người, Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn vinh quang thần linh, nơi Người, Triều Đại Nước Thiên Chúa đã đến.
Cái hiện tại được Đức Giêsu mang tới không phải là “một tích tắc thời gian” cho một cá nhân hay một nhóm người nào đó mà là “một triều đại bền vững, vĩnh tồn mở ra cho toàn thể nhân loại lẫn tạo thành. Vì thế khi chấp nhận con đường làm người để cứu thế và biểu lộ vinh quang thần linh, Đức Giêsu đã chọn việc kêu gọi các môn đệ, thiết lập cộng đoàn thiên sai làm hành vi khai mạc công cuộc cứu độ của Người. Các môn đệ sẽ là cánh tay nối dài của Đức Giêsu cho tới ngày tận thế.
4. Kêu gọi các môn đệ tiên khởi
Đọc Mc 1,16-20, ta thấy ơn gọi của bốn môn đệ tiên khởi được trình bày cứng ngắc theo một khung công thức:
-
Đức Giêsu đang đi, di chuyển Mc 1,16a.19a
-
Đức Giêsu THẤY đối tượng, được nêu rõ tên Mc 1,16b.19b
-
Đang làm công việc thường nhật của mình Mc 1,16c.19c
-
Đức Giêsu lên tiếng gọi Mc 1,17.20a
-
Đối tượng đáp lời nhanh chóng bỏ ngay mọi sự đi theo Người Mc 1,18.20b
Ơn gọi của Lêvi, Mc 2,14 cũng theo cùng một công thức.
Chắc chắn đó không phải là những bản tường trình lịch sử chính xác các sự kiện. Thật vậy không ai chọn gọi những môn đệ kế nghiệp mà lại làm một cách hời hợt, vội vã như thế và về mặt tương quan nhân bản cũng có vẻ bất cận nhân tình: Phêrô có vợ lại bỏ đi theo Đức Giêsu không một lời từ giã; Giacôbê và Gioan đang ở với Cha cũng không một lời xin phép. Thật ra Marcô vay mượn thể văn ơn gọi đã có trong Cựu Ước hầu diễn tả ý nghĩa thần học của việc Đức Giêsu gọi các môn đệ tiên khởi. Bản văn của Marcô được gợi hứng từ việc Êlia vâng lệnh Chúa Yavê chọn và xức dầu cho Êlisa làm ngôn sứ kế nghiệp của mình (x.1V 19,16b).
Như vậy ngang qua trình thuật ơn gọi của năm môn đệ tiên khởi theo thể văn ơn gọi, Marcô đã kín đáo mặc khải:
-
Hành động kêu gọi các môn đệ của Đức Giêsu xuất phát từ ý định của Chúa. Thiên Chúa muốn như vậy để tiếp nối truyền thống, chỉ có một lịch sử cứu độ được hé mở dần cách thích hợp theo dòng lịch sử nhân loại.
-
Những người được chọn sẽ tiếp tục sứ vụ thần linh của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Cha (x.Ga 20,21b) như là cánh tay nối dài của Đức Giêsu, cùng chung một chí hướng như Thầy, có cùng số phận như Thầy.
Ngoài ra, so với ơn gọi của Êlia, đòi hỏi của Đức Giêsu triệt để, dứt khoát, tuyệt đối. Điều đó hàm ý Đức Giêsu có một uy quyền như Thiên Chúa. Trước tiếng gọi của Chúa thì phải đáp trả ngay, không còn vấn đề chần chừ, lần lữa. Đối với người được Thiên Chúa gọi mời rồi thì không còn một công cuộc, bận tâm nào ở trần thế này có thể làm trì hoãn công trình của Thiên Chúa.
Nơi con người của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã tỏ bày trọn vẹn dự tính cứu độ của Người, cũng như những phương thức Người dùng để hoàn tất công trình yêu thương đó. Phần con người có đồng ý đáp lời mời của Đức Giêsu hay không, không có con đường thứ ba. Hãy mau chóng từ bỏ mọi sự để Đức Giêsu biến đổi ta thành tay thợ chài lưới con người như lưới cá, tiếp nối và hoàn tất công trình cứu độ Người đã khởi công.
Frère Pierre Đình Long FSC