CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

Bài 1

Is 60, 1 – 6; Mt 2, 1 – 12
Chủ đề: Thiên Chúa Hài Nhi tỏ mình cho chư dân, đáp lại, chư dân mang lễ vật đến tôn thờ Người.

* Is 60, 6: tất cả … đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa

* Mt 2, 11: họ sấp mình thờ lạy Người, rồi … lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

       Hôm nay Hội Thánh Công Giáo Tây Phương mừng lễ Hiển Linh. Hài Nhi Giêsu tỏ uy quyền thần linh của người cho các hiển sĩ dân ngoại và họ đã nhận ra trong Hài Nhi bé mọn này chính là vị vua Thiên Sai mà các sấm ngôn từ bao đời đã loan báo và họ đã thờ lạy Người.

       Hiển Linh có gốc tiếng Hi Lạp là EPIPHANEIA được ghép lại bởi EPI có nghĩa là TRƯỚC MẶT và PHANEIS = “hiện ra”, chỉ sự biểu dương quyền uy của vua chúa hay những cuộc tỏ hiện của thần linh.

   Vào thời sơ khai của Kitô giáo, Hội Thánh mừng lễ Hiển Linh vào ngày 6/1 và thực chất là mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh là ngày Thiên Chúa tỏ mình công khai cho người thế trong xác phàm Hài Nhi Giêsu. Ngày nay Hội Thánh Công Giáo Phương Đông và một số Giáo Hội Chính Thống vẫn còn giữ truyền thống này nghĩa là mừng lễ Giáng Sinh vào 6/1. Còn Hội Thánh Công Giáo Phương Tây mừng lễ Giáng Sinh vào 25/12 là kết quả của một tiến trình kitô giáo hóa một lễ hội ngoại giáo: Lúc đạo công giáo lan qua Tây Phương thì ở đó dân thờ Thần Mặt Trời và 25/12 là lễ hội mừng “Mặt Trời Chiến Thắng”. Và sau này dù tin vào Đức Giêsu thì tập tục mừng lễ hội 25/12 họ vẫn giữ và lấn át lễ Giáng Sinh vào 6/1 không sao xóa bỏ được. Thế nên thay vì xóa bỏ, Hội Thánh đã kitô giáo hóa ngày 25/12 bằng cách biến ngày ấy thành sinh nhật Đức Giêsu vì người là “VẦNG ĐÔNG từ chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Và ngày 6/1 trở thành lễ Đức Giêsu tỏ mình cho dân ngoại. Tuy nhiên sau Vatican II thì ngày lễ Hiển Linh thay vì cử hành vào 6/1 thì đổi thành vào Chúa Nhật sau lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 như hiện nay. Ngoài ra các biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, Tiệc cưới Cana cũng được gọi là HIỂN LINH; Và trong truyền thống thuở ban đầu của Hội Thánh 3 biến cố Hiển Linh – Phép Rửa và Tiệc Cana được cử hành chung vào 6/1 (x. HĐGMVN, Ban Tự Vựng, “Từ điển Công Giáo”, Hiển Linh, Lễ)

    Ngày nay phụng vụ Lời Chúa lễ Hiển Linh hướng về ý nghĩa Đức Giêsu tỏ mình cho dân ngoại. Đáp lại, chư dân sẽ mang lễ phẩm đến bái phục tôn thờ Người.

          Trong bài đọc 1, Thiên Chúa tỏ mình qua việc Người dùng Kyrô, vua Ba Tư giải cứu dân Chúa khỏi cảnh Lưu đày, cho họ được hồi hương với nhiều ưu đãi. Họ về lại quê nhà lòng tràn niềm vui, trong tư thế ngẩng cao đầu. Việc tỏ mình thần linh ấy làm số phận Giêrusalem đổi thay: thành được kêu mời hãy chỗi dậy, đứng lên, bừng sáng lên để trở thành ánh sáng và nên trung tâm qui tụ chư dân.

          Muôn dân nước sẽ lũ lượt kéo nhau về Giêrusalem mang theo lễ vật quí giá để ca tụng, tôn thờ Thiên Chúa. Hình ảnh lạc đà xứ Madian, Epha, Sơva mang theo vàng, trầm hương tiến về Giêrusalem là hình ảnh báo trước cuộc triều bái của các nhà hiền sĩ phương đông trước Hài Nhi Giêsu sẽ được thuật lại trong trình thuật Tin Mừng.

          Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện các hiền sĩ từ phương đông tìm đến Giêrusalem để triều bái, suy phục “Vua dân Do Thái vừa mới hạ sinh”. Qua biến cố này, chúng ta thường nói Đức Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Thật ra qua những phương thế khác nhau, Hài Nhi tỏ mình ra cho TOÀN THẾ GIỚI. Tiếc thay chỉ có các hiền sĩ đón nhận hồng ân hiển linh của Hài Nhi cho họ và sinh hoa kết quả; Còn các nhân vật khác đã có các phản ứng tiêu cực trước các dấu chỉ tỏ mình của Hài Nhi. Thật vậy: Câu hỏi “Đức Giêsu vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu?” của các hiền sĩ đã làm chấn động vua Hêrôđê và cả dân thành Giêrusalem. Tiếc thay dân thành chỉ “xôn xao” rồi sau đó hờ hững bỏ qua, không màng gì tới Tin Mừng trọng đại ấy; Còn Hêrôđê thì nảy sinh ác ý, ganh tỵ tìm cách giết Hài Nhi. Rồi qua trung gian Hêrôđê, toàn thể ban lãnh đạo Do Thái giáo các thượng tế và kinh sư nghe công bố Tin Mừng! Thế nhưng họ chỉ làm công việc của con mọt sách và vô tình trở thành kẻ chỉ điểm để Herode tìm giết Hài Nhi. Riêng phần các hiền sĩ với tất cả lòng thành, họ được Thiên Chúa TỪNG BƯỚC soi dẫn, tận dụng mọi phương tiện tốt lẫn xấu và đã tới đích được Hài Nhi hiển linh: Nhờ ngôi sao họ đến được Giêrusalem và gặp được Hêrôđê; Nhờ Hêrôđê, họ tiếp xúc được với các đại diện của truyền thống Do Thái giáo đang nắm giữ những mặc khải chính xác về Đấng Mêsia; Nhờ họ, các hiền sĩ nghe được lời Kinh Thánh…Và phối hợp tất cả lại, họ đã gặp được Hài Nhi. Sau đó họ đã đổi đời, đi lối khác mà về xứ mình. Và chắc chắn rằng họ là những người loan báo tin mừng Giáng Sinh cho quê hương họ.

          Vừa giáng sinh, Hài Nhi Giêsu đã tỏ mình cho toàn thế giới! Còn phần tôi, tôi đóng góp được gì cho công cuộc HIỀN LINH của Hài Nhi vẫn còn đang tiếp diễn?

Bài 2

    Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2,11).

Theo lịch phụng vụ, hôm nay, Chúa Nhật sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, Giáo Hội Công Giáo mừng trọng thể Lễ Hiển Linh, tưởng niệm việc Hài Nhi Giêsu, tỏ mình ra cho dân ngoại. Trong khi đó, Giáo Hội Đông Phương vẫn mừng lễ này vào 1 ngày cố định là 6/1. Dầu vậy ở Đông Phương, các Kitô hữu vẫn mừng ngày Lễ Hiển Linh là ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người, tức là Giáng Sinh bên Công Giáo Tây Phương (x. Bài Chủ Đề)

Chuyện tách biệt các nghi lễ giữa Đông và Tây là về sau; còn thời giáo Hội sơ khai, chỉ mừng một lễ chung gọi là Lễ Hiển Linh (ý nghĩa tổng quát là Thiên Chúa tỏ mình) bao gồm tất cả những lần tỏ mình quan trọng của Đức Giêsu trong giai đoạn Người còn ẩn dật trước khi xuất hiện công khai đi loan báo, giảng dạy Tin Mừng.

Hiện nay, những lần tỏ mình ấy được phụng vụ Rôma tách thành các lễ mừng riêng biệt theo từng biến cố trong giai đoạn ẩn dật của Đức Giêsu và bản văn Kinh Thánh được sử dụng trong các dịp lễ trải dài ấy là Mt 1-2 và Lc 1-2:

  1. Giáng Sinh:

  2. Lễ Vọng ABC đọc Mt 1, 1-25: HàI Nhi đang là một Mầm Sống trong dạ Maria, mời Giuse cộng tác vào công cuộc của Thiên Chúa, tỏ mình ra cho Giuse và mời ông đón nhận Mẹ Con Người vào gia đình gia tộc ông.

  3. Lễ Đêm ABC: Lc 2,1-14: tỏ mình ra cho các mục đồng.

  4. Lễ Rạng Đông ABC: Lc 2,15-20: qua các mục đồng, giờ trở thành những người đầu tiên rao giảng Tin Mừng Giáng Sinh, Hài Nhi và cả gia đình Maria và Giuse (c.16) tỏ mình cho con dân Israel lưu lạc khắp bốn phương đang qui tụ về theo lệnh Hoàng Đế Rôma, để “khai tên tuổi”.

  5. Lễ Thánh Gia:

  6. Năm A: Mt 2,13-23: qua biến cố trốn sang Ai Câp rồi sau đó lại quay về. Hài Nhi tỏ mình là Israel mới, Môsê mới tức Đấng phải đến để hoàn tất lời đoan hứa của Thiên Chúa báo trước qua ngôn sứ.

  7. Năm B: Lc2, 22-40 tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa. Hài Nhi tỏ mình cho Simêon và Anna, đại diện cho những người đạo đức, thực tâm khát khao mong chờ Chúa đến.

  8. Năm C: Lc 2, 41-52 Năm 12 tuổi, Đức Giêsu tỏ mình ra cho các bậc thầy Do Thái; Đồng thời cũng mời Maria và Giuse tiến sâu hơn vào mầu nhiệm thần linh đang ẩn tàng trong xác thân Giêsu.

  9. 3. Lễ Maria Mẹ Thiên Chúa mừng ngày 1/1: Lc 2, 16-21. Hài Nhi tỏ mình cho xã hội loài người qua các thể chế: đặt tên, cắt bì…nhưng tên đó cũng cho thấy ý định từ muôn đời của Thiên Chúa: tên đã được đặt TRƯỚC KHI Người thụ thai trong dạ mẹ (xem thêm Gl 4,4).

  10. Lễ Hiển Linh ABC: Mt 2, 1-12

          Thường quen gọi bình dân là Lễ Ba Vua vì thấy có 3 lễ vật (2, 11b). Hài Nhi tỏ mình ra cho dân ngoại mà các nhà chiêm tinh là đại diện.

  1. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa

          Lúc này Đức Giêsu đã 30 tuổi. Giai đoạn thời thơ ấu đã chấm dứt, nhưng Người vẫn còn ẩn dật chưa công khai xuất hiện đi rao giảng. Ba đoạn trích trong Nhất Lãm: Mt 3, 13-17 (A); Mc 1, 7-11(B); Lc 3, 15-22 (C) cho thấy đối tượng được Chúa tỏ mình cho lần này là Gioan Tẩy Giả và đám dân đang sám hối chờ Chúa đến.

  1. Và lần tỏ mình cuối cùng của giai đoạn ẩn dật, trước khi xuất hiện rao giảng công khai là Ga 2, 1-11 (C). Các bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 2 Mùa Thường Niên đều trích từ Tin Mừng Gioan phần tuần lễ khai mạc Ga 1,29-34 (A); Ga 1, 35-42 (B). Đối tượng chủ yếu được Đức Giêsu tỏ mình là cộng đoàn thiên sai, là nhóm môn đệ vừa được Đức Giêsu thiết lập. Người đưa họ vào nhiệm cục mới: Nước hóa thành Rượu và họ tin vào Người.

          Cùng với cộng đoàn thiên sai đó, Đức Giêsu bắt đầu giai đoạn rao giảng công khai.

      Lướt qua giai đoạn ẩn dật trên ta thấy nơi “mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình” được thể hiện trên toàn thế giới, chứ không chỉ nơi Bêlem, Nadaret cho dù tới lúc đó Chúa chưa rời khỏi xứ Galilê. Điều đó được thấy rõ khi ta đọc cẩn thận Lời Chúa trong Lễ Hiển Linh hôm nay. Thật vậy:

   Sứ điệp chính của Lễ Hiển Linh là Chúa tỏ mình ra cho CHƯ DÂN. Mầu Nhiệm này nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ: tất cả những ai chân tâm tìm kiếm chân lý đều có thể gặp gỡ được Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Tuy nhiên khi tỏ mình cho chư dân thì đồng thời Chúa cũng tỏ mình luôn cho dân Chúa và tất cả những ai có liên hệ với dân Chúa:

   Thật vậy, Tin Mừng lễ Hiển Linh cho thấy khi các nhà chiêm tinh đến Giêrusalem thì Tin Mừng “vua dân Do Thái mới sinh” đồng thời cũng được loan báo cho cả thành Giêrusalem, cho các lãnh đạo tôn giáo Thượng Tế, kinh sư và cho cả Hêrôđê là người Idumê (tên Hi Lạp của Eđom còn gọi là Esau, anh song sinh với Giacop) lúc ấy là vua Israel.

   Và thực ra, Ánh Sao chỉ đưa các nhà chiêm tinh đến Giêrusalem, còn để gặp được Hài Nhi tại Bêlem thì phải nhờ đến trung gian của Dân Chúa, của các Thượng Tế và kinh sư là những người giữ gìn truyền thống Kinh Thánh Do Thái giáo, và nhất là của chính Lời Chúa được các ngôn sứ công bố từ ngàn xưa để làm dấu chỉ giúp nhận ra được Đấng Thiên Sai khi Người ngự đến.

   *  Thật vậy trong bài đọc 1, việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho chư dân đã được ngôn sứ Isaia loan báo trước, và vai trò trung gian của dân Chúa cũng được đề cao. Isaia loan báo:

    Trong khi bóng tối bao trùm trên chư dân thì “Ánh sáng của Chúa như bình minh chiếu tỏa trên Giêrusalem”; do đó vua chúa, chư dân sẽ nhìn về ánh sáng của Giêrusalem mà tiến đến. Giêrusalem sẽ tỏ rạng vinh quang và được trở nên giàu sang, phú túc vì của cải chư dân sẽ đổ tràn về Giêrusalem. Hình ảnh lạc đà từng đàn kéo đến chở theo lễ vật VÀNG với TRẦM HƯƠNG sẽ được Tin Mừng Matthêu sử dụng lại để làm dấu chỉ cho việc Đức Giêsu tỏ lộ vinh quang cho chư dân. Lời ngôn sứ loan báo trước nay ứng nghiệm nơi Hài Nhi Giêsu.

   * Tuy nhiên điều đáng tiếc là trong Tin Mừng, Giêrusalem đã không hoàn tất được vai trò là ánh sáng thu hút dân ngoại về thờ lạy Chúa: Họ đã hoàn toàn hờ hững trước Tin Mừng “vua dân Do Thái mới sinh”; và còn tệ hơn nữa, những người gìn giữ truyền thống Do Thái giáo là Thượng Tế và kinh sư, qua lời cung cấp tin tức cách vô tâm về Đấng Mêsia đã vô tình trở thành người chỉ điểm để Hêrôđê, kẻ tiếm ngôi vua của dòng họ Hasmômê Do Thái, tìm giết Hài Nhi vua Thiên Sai của họ.

  May thay, Thiên Chúa vẫn trung tín với dự tính của Người: bất chấp những tiêu cực, ác ý từ phía con người, Chúa vẫn thực hiện điều Người đã phán quyết qua các ngôn sứ.

    Tất cả mọi yếu tố từ thiên nhiên (Ánh Sao), đến cơ chế, truyền thống dân Chúa là Giêrusalem, Thượng Tế, Kinh sư, từ Lời Chúa cho đến cả ác ý tham vọng của thế quyền đều là công cụ trong bàn tay Thiên Chúa để Người tỏ mình cho chư dân.

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1 – 6

    Is 60 – 62 là 1 khối thống nhất ca tụng Giêrusalem vinh hiển (x. CGKPV “Các Sách Ngôn Sứ” 199 – d). Nhưng trong thực tế, dân cư vừa thoát ách Babylon, một số đã hồi hương, bàn thờ vừa được dựng lại, nhưng dân cư còn thưa thớt, công trình tái thiết Đền Thờ dang dở do bị đám dân địa phương cản phá (x. Er 4, 1 – 5), lại thêm hạn hán (x. Kg 1, 10 – 11) …, do đó tâm trạng vẫn chưa an đưa tới tâm trạng sai lầm hờn trách Chúa (x. Is 58, 3). Trong bối cảnh ấy Lời Isaia đệ tam vang lên để điều chỉnh, an ủi, định hướng cho dân:

    Phụng vụ trích đọc Is 60. 1 – 6, mời Giêrusalem vui lên vì Chúa tỏ lộ vinh quang cho Giêrusalem. Sứ điệp vui mừng hy vọng không chỉ dành riêng cho Israel mà con chiếu toả ra cho toàn thế giới nữa. Thiên Chúa tỏ vinh quang Người cho muôn dân, tính phổ quát và đại đồng của việc Chúa tỏ mình được nhấn mạnh.

  Thiên Chúa ngang qua ngôn sứ Isaia đệ tam, nhân cách hoá Giêrusalem, nói với Giêrusalem như nói với người vợ tưởng rằng mình đã bị bỏ rơi, như nói với 1 người mẹ sầu khổ vì thực tại con cái còn đầy tăm tối, rằng Chúa sẽ hồi phục, làm Giêrusalem được toả sáng. Thực vậy, dân đã hồi hương đợt 1 vào năm 538 với Sheshbaxar (x. Er 1, 8). Về đến Palestin, thực tế trước mắt không lý tưởng như lúc còn ở Babylon nghe Is đệ nhị loan báo: Giêrusalem điêu tàn: dân cư kém cỏi, nghèo, thưa thớt, lẫn lộn dân ngoại, đất đai bị bọn thực dân chiếm, nhất là người Samari, đống hoang tàn của Đền Thờ còn đó, rồi việc tái thiết gặp khó khăn … khiến những tiêu cực xảy ra trong dân hồi hương và họ đã than trách Chúa (x. Is 58, 3ab; 59, 1. 13cd). Chính trong bối cảnh như vậy, Isaia đệ tam xuất hiện, phân tích nguyên do, tình hình và loan báo ngày Giêrusalem được toả sáng, công bố sứ điệp hi vọng, vực dậy lòng tin.

  1. Loan báo hồi phục, kêu mời hi vọng (c.1)

* Đối tượng: bản hipri không ghi rõ; bản LXX và Phổ Thông ghi “Giêrusalem”

* Nội dung

– “Đứng lên”, “chỗi dậy”: “qum”: đôi khi dịch là “phục sinh” (Is 26, 19)

– “Bừng sáng lên”: “hãy trở thành ánh sáng”, “hãy là ánh sáng”

   Những cách nói loan báo số phận sẽ sáng tươi, đó là lời đáp của Chúa cho những lời than trách ở 2 chương trước: từ tình trạng đang nằm rạp (58, 5cd), được mời đứng lên, chỗi dậy: từ chỗ còn đang trong bóng tối (59, 9cd) nay được mời tỏa sáng hau nói mạnh hơn được mời trở thành ánh sáng. Tuy nhiên các từ ấy cũng hàm ý mời bỏ đi cái nhìn lệch lạc, than trách Chúa khi không được như ý (58, 3; 59, 1. 13) cần hồi tâm thú lỗi (59, 12. 20)

* Nguyên do có lời mời

– Ánh sáng của người đến rồi

– Vinh quang Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi

   Số phận đổi thay, Giêrusalem bừng sáng không do tự sức mình, nhưng do Chúa là “ánh sáng của Giêrusalem” đã đến soi chiếu cho Giêrusalem. Hình ảnh “bình minh” gợi lên ánh Mặt Trời.

  1. Hoa trái: vinh quang cho dân Chúa (cc 2 -3): Chúa ưu đãi dân

* Chư dân tối tăm

* Còn dân Chúa tràn đầy vinh quang Chúa

   Mục đích của việc được ưu đãi không để thống trị, lên mặt nhưng là Giêrusalem phải là trung gian chiếu tỏa ánh sáng Chúa cho chư dân.

   Hình ảnh ấn tượng: Chúa là Mặt Trời, dân tạm coi là mặt trăng đêm rằm, chư dân là trái đất trong đêm tối. Trong đêm, “Trăng” “trở nên ánh sáng” cho “Trái Đất” nhờ phản chiếu ánh “Mặt Trời”

* Hệ quả; chư dân sẽ hướng về Giêrusalem lúc đó đã THÔNG PHẦN trở nên “ánh sáng”, “bình minh”.

   Lúc này đề phòng cơn cám dỗ địa đàng: có ảo tưởng muốn tách rời khỏi Thiên Chúa, tưởng mình là “ánh sáng”, là “bình minh”

  1. Niềm vui, hạnh phúc của Giêrusalem: trung tâm qui tụ (cc. 4 – 6)

* Niềm vui hạnh phúc của Giêrusalem (c. 5ab)

* Thấy con cái hồi hương quy tụ về trong tình trạng được đối xứ tử tế (c.4 so Br 5, 5 – 6)

* Thấy nguồn giàu sang phú quý của chư dân tuôn về thành (cc. 5c – 6)

   Một truyền thống sống động của Israel cho rằng việc quy tụ Israel lẫn chư dân là công trinh của Đấng Mesia. Cái nhìn có hậu cảnh Mesia (x. Is 11, 10 – 12; 49, 6)

   Lời sấm về của cải chư dân có thể ám chỉ biến cố hồi hương với những giúp đỡ tận tình của các vua Ba Tư: Kyrius (Er 6, 1 – 5) nhất là Darius trong đợt hồi hương 2 với những giúp đỡ cụ thể lớn lao: Kyrius ra lệnh trích lấy tiền thuế thu được từ vùng Bên Kia Sông để chu cấp cho việc xây Đền Thờ và cung cấp đầy đủ lễ vật bò chiên để tế lễ cho Thiên Chúa (x. Er 6, 6-12).

* Lạc đà Madian và Êpha … từ Sơva kéo đến

    Madian là con của Abraham, Epha là con Madian, Sơva cũng là con của 1 người con khác của Abraham. Theo Kinh Thánh, họ được gọi là “con cái của phương đông” (X. St 25, 1- 6). Vậy việc hồi phục Giêrusalem ở đây không chỉ là cho Israel mà là cho Abraham, nghĩa là cho cả nhân loại. Với những tên kể ra đều là bà con với nhau, hàm ý khi sự hồi phục diễn ra thì mọi người sẻ nhận ra lại tất cả bà con của nhau. Vậy hạnh phúc của Gierusalem không chủ yếu là giàu có, không là thống trị, tước đoạt kiểu minh chủ- chư hầu, nhưng là do nhận ra nhau là anh em.

– Lạc đà từng đàn hàm ý của cải rất nhiều

– Vàng, trầm hương là đặc sản của Sơva: biểu tượng điều tốt nhất mỗi xứ

Những hình ảnh trên gợi lại các nhà chiêm tinh đi tìm Giêsu. Chưa nói đến mộc dược là vì mầu nhiệm Thập Giá chưa được hé mở.

  1. Tóm kết

     Bài đọc 1 cho thấy ý định của Thiên Chúa về số phận huy hoàng và sứ mạng của Giêrusalem trong tương quan với ơn cứu độ phổ quát mà Chúa dành cho chư dân: Nhờ ánh sáng Chúa chiếu rọi, Giêrusalem được hồi phục, được chiếu sáng và còn hơn nữa được trở thành ánh sáng chiếu rọi vinh quang Chúa cho chư dân. Giêrusalem sẻ là nơi quy tụ, thu hút chư dân đến để hưởng nhờ ơn cứu độ, để dâng lên Chúa lễ phẩm tôn thờ và ca khen Thiên Chúa

            Cái nhìn đại đồng, tính phổ quat của ơn cứu độ đã được đề cập đến ở đây. Niềm vui của Giêrusalem là được đón nhận ơn Chúa và đem chia sẻ cho người khác để cuối cùng tất cả họp nhau tôn vinh Chúa.

TIN MỪNG: Mt 2, 1-12

     Tin Mừng MátThêu mở đầu bằng 5 trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu, giới thiệu căn tính, sứ mạng của Người và cách Người sẽ dùng để thi hành sứ mạng

* Đức Giêsu là con Đavit, con Abraham, Người đến hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa với các bậc tổ tiên (1,1-17)

* Cuộc truyền tin cho Giuse giải thích bằng cách nào Đức Giêru đã hội nhập vào hoàng tộc Đavít (1,18-25)

* Việc giáng sinh được trình bày như là cách Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại: tuyển dân lẫn dân ngoại; và thái độ đáp trả từ phía con người (2,1-12)

* Trình thuật về việc trốn qua Ai Cập (2,13-18),

* Và từ Ai Cập trở về lại quê hương (2,19-23) nhằm mặc khải Đức Giêsu là Môsê của thời đại mới, đồng thời giải thích nguồn gốc Nadarét của Người, cho dù người được sinh hạ tại Bêlem.

   Tin Mừng hôm nay trích đoạn thứ ba. Hài Nhi Giêsu tỏ mình ra, chính yếu là cho chư dân mà các nhà chiêm tinh là đại diện. Tuy nhiên, trong thực tế, bằng nhiều phương thức khác nhau, Hài Nhi cũng tỏ mình ra cho Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, qua câu hỏi của các nhà chiêm tinh. Rồi qua Hêrôđê, Hài Nhi nhắc nhở cho các Thượng tế và kinh sư biết Chúa đã đến. Tiếc thay tất cả đều có phản ứng tiêu cực: Hờ hững, chẳng quan tâm; Tệ hơn nữa là Hêrôđê còn nảy sinh ác ý tìm giết Hài Nhi. Chỉ có các nhà chiêm tinh là đáp trả tích cực: lên đường tìm kiếm và kiên trì cho đến cùng.

   Và cũng như các mục đồng, một khi đã gặp và thờ lạy Hài Nhi, cuộc đời họ biến đổi: họ đã đi lối khác mà về xứ mình; và chắc chắn rằng Tin Mừng Giáng Sinh mà họ đã cảm nghiệm sẽ được họ loan báo cho đồng bào của họ nơi đất nước, quê hương họ đang cư trú.

   Công việc của Thiên Chúa thật tuyệt vời: vừa mới Giáng Sinh, Hài Nhi đã tỏ mình cho toàn thế giới. Thế nhưng con người đã đáp trả như thế nào?

  1. Khung cảnh của trình thuật (cc. 1 -2)

* Sự kiện nền: Đức Giêsu Giáng Sinh

* Nơi chốn: Bêlem

* Thời điểm: Hêrôđê trị vì

   Đây là vua Hêrôđê Cả, chính thức nắm quyền cai trị tại Giêrusalem, từ năm 37, nhưng trước đó đã được nguyên lão viện Rôma đặt làm vua Giuđa từ năm 40, ngay lúc còn lưu lạc ở Rôma. Và theo Josephus Flavius trong Antiq. XVII, 8, 11 thì vua này “chết vào năm 37 của triều đại ông, thọ 70 tuổi”. Vậy ông mất vào năm 4 TCN. Từ đó phối hợp với Mt 2, 16 các nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu sinh ra khoảng năm 7 – 5 TCN.

   * Yếu tố làm phát sinh biến cố: Vua Do Thái vừa Giáng Sinh và các nhà chiêm tinh từ phương đông tìm đến triều bái (c.2)

   Vấn đề: dựa vào đâu mà các nhà chiêm tinh vốn là dân ngoại lại nhận biết và quan tâm đến vua Do Thái mới sinh? Phần còn lại của trình thuật là câu đáp.

  1. Từng bước Thiên Chúa tỏ mình và đáp trả của con người (cc. 2b – 11)

  2. Qua các phương tiện tự nhiên

   a1. Đối với các nhà chiêm tinh: ngôi sao (c.2)

   * Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người

   Cổ thời, người ta cho rằng việc đản sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện các ngôi sao mới. Do Thái giáo đã nối kết niềm hi vọng thiên sai vào ngôi sao mà lời sấm Balam đã loan báo (Ds 24, 17). Dần dần truyền thống Do Thái đã đồng hóa ngôi sao Giacop trong Ds 24, 17 với vua Mêsia. Rồi một vài tác giả Tân Ước, trung thành với truyền thống, đã gán điều ấy cho Đức Giêsu (2P 1.19; Kh 2, 28; 22,16).

   * Đáp trả của các vị:

   – Lên đường

   – Đến Giêrusalem dò hỏi

   – Tâm tình: muốn đến bái lạy Người

   Trong các Tv, động từ “bái lạy” diễn tả thái độ thần phục, tôn thờ của mọi người đối với Thiên Chúa: 5, 8; 22, 28.30; 29,2; 45,12; 66,4; 72,11…

   a2. Đối với Hêrôđê và thành Giêrusalem: các nhà chiêm tinh

   * “Nghe tin ấy”: Sự hiện diện và câu hỏi của các nhà chiêm tinh đã là phương thế Thiên Chúa dùng để tỏ mình cho Hêrôđê và dân Giêrusalem.

   * Phản ứng của họ: bối rối: “Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cùng với ông”

   Động từ “tarassô” chỉ được Matthêu dùng ở đây và 14, 26 diễn tả sự cuống cuồng của các môn đệ khi thấy Đức Giêsu đi trên biển và đến với các ông vì tưởng là ma. Hoảng loạn là vì thiếu đức tin, không nhận ra Chúa đến hoặc ý nghĩa việc Chúa đến: Hêrôđê tưởng Chúa đến tranh ngai vàng, môn đệ lại tưởng là ma. Vấn đề là tại sao Giêrusalem lại có cùng tâm trạng với Hêrôđê? Đây là nét thần học của Matthêu: ngay ở đây, từ thơ ấu Matthêu đã khéo léo làm nổi bật lên chủ đề “Đức Giêsu bị người Do Thái từ chối và lại được lương dân đón nhận. Mầu nhiệm thập giá cũng được giới thiệu sớm ở đây; bằng mọi giá Giêrusalem đòi giết Đức Giêsu dù philatô 3 lần muốn tha.

  1. Qua truyền thống và kinh thánh (cc. 4-10)

b1 – Mặc khải (cc. 4-6)

* Hêrôđê triệu tập TẤT CẢ thượng tế và kinh sư

    Cách nói phóng đại nhằm 1 ý thần học. Thực tế 1 câu hỏi chợt tới của các nhân vật đến từ xa không thể khiến Herode triệu tập Thượng Hội Đồng Do Thái, và điều này cũng khó xảy ra vì 2 phe chống nhau. Ý thần học: báo trước thập giá, phe Herode và phe biệt phái liên minh tìm hại Đức Giêsu (Mt 22, 15-16, x. Mc 3,6)

* Rồi hỏi về nơi sinh ĐẤNG KITÔ

     Lẽ nào Herode không biết lời Kinh Thánh? Nhưng Matthêu cố ý làm nổi bật vai trò thượng tế, kinh sư là những người uy tín trong việc gìn giữ và lưu truyền đạo lý Do Thái. Họ là đại diện của truyền thống tôn giáo. Ở đây “Đúc Vua” đã thế bằng “Đức Kitô” nghĩa là nhấn tới khía cạnh tôn giáo.

* Mặc khải Kinh Thánh: “ở Bêlem”. Trích Mk 5,1-3

    Chút thay đổi so với Mk 5,1 “ngươi ĐÂU PHẢI là…”. Chi tiết này cho thấy Matthêu đã đọc Cựu Ứơc dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo: Bêlem nên lớn lao nhờ Đức Giêsu hạ sinh ở đó; Người chính là Mesia- Mục Tử đích thực.

     Ở đây bản văn làm bật ra sự mâu thuẫn bi đát: Thượng Tế và Kinh Sư có vai trò là máng chuyển thông mặc khải, thế nhưng trong khi loan báo Lời Chúa cho dân ngoại biết về Đấng Mêsia và gặp được Người, thì họ lại không nhận ra được Người trong Hài Nhi Bêlem; và còn tệ hơn nữa, họ lại là công cụ chỉ điểm để Herode tìm hại Hài Nhi.

    Như vậy truyền thống và Kinh Thánh đã giúp các nhà chiêm tinh xác nhận được ý nghĩa của “ngôi sao” và nơi giáng trần của Đức- Vua- Kitô.

b2 – Các phản ứng trước mặc khải

* Thượng tế, kinh sư: vô tâm

    Từ nay họ không còn là máng chuyển thông mặc khải nữa; mặc khải chính thức phải được đọc lại dưới ánh sáng kitô

* Herode: dã tâm, khai thác các nhà chiêm tinh để hãm hại Đức Giêsu

– Bí mật vời đến

– khai thác tin tức

– phái họ đi Bêlem với lời căn dặn dối trá.

* Các nhà chiêm tinh: vui mừng tiếp tục lên đường với ánh sáng mới của mặc khải phối hiệp với việc tái hiện của “ngôi sao” (9-10). Kết quả là các vị ấy đến đúng nơi Hài Nhi ở.

    Chi tiết ngôi sao “dừng lại nơi Hài Nhi ở” thật khó giải thích theo thiên văn. Ý của Matthêu có lẽ là những ánh sáng của lý trí, của tự nhiên… (Ngôi Sao là biểu tượng) phải được mặc khải soi dẫn thì mới có thể đạt được hiệu năng cao nhất.

  1. c. Qua Hài Nhi trong “nhà” (c.11)

* “Họ vào NHÀ”: không là “chuồng bò lừa”, không có mục đồng… như Luca. Hay là Giuse có nhà ở Bêlem?

        Đọc Cv 13,48.52; 14,27, ta thấy nỗi vui của dân ngoại được tin, được đón nhận vào cộng đoàn Kitô. Vậy đây là nét Giáo Hội học của Mt: “NHÀ” ở đây là hình bóng của của Giáo Hội. Trong “NHÀ: này chư dân mọi thời có thể tiếp tục kính bái Chúa Hài Nhi như các nhà chiêm tinh xưa.

* “Thấy Hài Nhi và thân mẫu”. Còn Giuse?

Công thức được nhắc lại nhiều lần: cc 13. 14. 20.21 nhằm nhắc nhở việc thụ thai đồng trinh đã nói trong 1, 18-25.

* “Họ sấp mình bái lạy” (x. c2)

* Dâng lễ vật: vàng, nhũ hương, mộc dược

   Lời ngôn sứ ứng nghiệm: Is 60, 5 – 6; Tv 72, 10. Mọi nẻo đường phải đưa tới Bêlem: tôn nhận Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa, là biểu hiện chóp đỉnh của tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa. Vàng biểu tượng vương quyền; Nhũ hương, thần tính; Matthêu thêm mộc dược ám chỉ đến Thập Giá. Có tin được Giêsu Hài Nhi, Giêsu Thập Giá là vua, là Thiên Chúa?

  1. Hoa trái việc gặp Thiên Chúa: đổi đời (c.12)

* “Được mộng báo”

   Giấc mộng là 1 trong những cách Thiên Chúa thường dùng để tỏ lộ Thánh Ý trong Cựu Ước. Và người được mộng báo thường có 1 vị trí trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

* Đừng trở lại gặp Herode nữa, nên đã ĐI LỐI KHÁC …

    Có thể hiểu theo nghĩa địa lý: đi 1 con đường khác; cũng có thể hiểu theo nghĩa tôn giáo luân lý: đổi cách sống; Và quan trọng hơn nữa là họ đi vào tương quan thân tình với Chúa: từ là những kẻ đi tìm Chúa, giờ họ là những người loan báo tin mừng cho dân của họ.

  1. Tóm kết

   Hài Nhi mới hạ sinh ở Bêlem chính là Đấng Thiên Sai mà Israel hằng mong đợi. Mattheu đã sử dụng cách dồi dào các yếu tố Kinh Thánh từ hiện tượng thiên nhiên, đến thể chế truyền thống và nhất là lời ngôn sứ để tỏ lộ căn tính thần linh của Hài Nhi.

   Điều lạ là tất cả các phương tiện mặc khải ấy, người Do Thái đều biết và nhất là họ đang mong chờ Đấng Mêsia, thế nhưng họ đã tỏ ra hết sức hờ hững, vô tâm trước tin mừng vua của họ đã đến, trong khi đó dân ngoại lại náo nức tìm tòi dò dẫm từng bước đến bái phục Người trong Hài Nhi bé nhỏ. Qua những nét tiêu cực của Hêrôđê, Giêrsusalem, thượng tế, kinh sư, Thập Giá của Đức Giêsu được phác họa sớm: hệ quả là chỉ có ai dám chấp nhận thập giá thì mời nhận ra được căn tính thật của Hài Nhi.

   Trong tinh thần phụng vụ: Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại thì cách thức tỏ mình tiệm tiến của Thiên Chúa được nhấn mạnh. Từng bước một, với các phương thế thích hợp, chóp đỉnh là Lời Chúa và Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa mời con người tiếp đón Người vượt qua vẻ nghèo hèn nhân loại bên ngoài. Phụng vụ mời mỗi người chúng ta mở rộng lòng để có thể nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình trong từng giây phút, qua mọi biến cố trong cuộc đời chúng ta à hãy thờ lạy Người trong mọi sự, đổi mới cuộc đời.

Frère Pierre Đình Long FSC