CHÚA NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM B

Bài 1

Đn 12,1-3; Mc 13,24-32
Chủ đề: Báo trước về ngày quang lâm:
Thiên Chúa đến giải cứu những ai thuộc về Người.

* Đn 12,1b: Thời đó, Micae sẽ đứng lên… dân Chúa sẽ thoát nạn… tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa.

* Mc 13,26: Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến… và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn.

Chúng ta bước vào Chúa Nhật XXXIII B. Năm phụng vụ sắp chấm dứt. Chúa Nhật này hướng chúng ta về Ngày Cánh Chung. Vào thời điểm này, Thiên Chúa sẽ can thiệp quyết liệt và dứt khoát để hoàn tất công trình yêu thương sáng tạo và cứu độ của Người. Lúc đó mọi việc mỗi người làm tại thế sẽ được phơi bày tỏ tường; Và số phận chung cuộc của mỗi người trong tương quan với Thiên Chúa sẽ được quyết định tùy theo những gì mỗi người đã sống lúc sinh tiền. Theo đức tin Công Giáo, đây là thời điểm Thiên Chúa cho thân xác phàm nhân sống lại, hòa hợp với linh hồn để toàn bộ nhân tính của từng người sẽ đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác đó là thời điểm Thiên Chúa PHÁN XÉT công khai, chung cuộc cho toàn thể tạo thành; Vấn đề THIÊN ĐÀNG, HỎA NGỤC sẽ hiển lộ tỏ tường, và từng người phải biểu lộ sự chọn lựa DỨT KHOÁT của mình, một sự chọn lựa vĩnh viễn, không chỉnh sửa được nữa. Người lành sẽ hân hoan đi vào trong vinh quang của Thiên Chúa, kẻ dữ phải xấu hổ, sợ hãi lẩn tránh Thiên Nhan. Đó là ngày hạnh phúc viên mãn cho người lành nhưng lại là ngày khốn cùng kinh khiếp cho kẻ ác.

Thế nhưng khi nói đến “cánh chung” “tận thế”, phần lớn các tín hữu đều mang tâm trạng lo âu, sợ hãi. Người ta chỉ nhìn thấy khía cạnh HỦY DIỆT mà quên mất khía cạnh PHÚC VINH VĨNH CỬU mà Thiên Chúa mang đến cho công cuộc Tạo Dựng, Cứu Chuộc của Người: từ nay ai trung thành sẽ thông phần trọn vẹn phúc vinh thần linh mà Thiên Chúa thông ban.

Điều Thiên Chúa hủy diệt là thế giới tội lỗi, là những yếu tố dối trá xuyên tạc ý định yêu thương của Thiên Chúa, đánh lừa con người gây xáo trộn trật tự TỐT LÀNH mà Thiên Chúa đã đặt để trong công trình sáng tạo. Từ nay, nhân loại và toàn thể tạo thành sống an bình trong Eden mới nơi Tình Yêu Thiên Chúa vĩnh viễn ngự trị. Tuy nhiên phần cá nhân: mỗi người vẫn còn nguyên vẹn sự tự do mà Thiên Chúa đã ban: trước “ván bài đã lật tẩy”, mỗi cá nhân với tất cả tự do hoàn toàn vẫn có quyền chọn lựa theo hay từ chối ý Chúa cho cá nhân mình, RIÊNG CHO CÁ NHÂN MÌNH mà thôi. Và lần này là sự chọn lựa dứt khoát.

Vậy tận thế là ngày mừng vui, ngày mà người chính trực sẽ “đứng thẳng lên và ngẩng cao đầu” (x. Lc 21,28) vì biết mình được cứu độ. Còn kẻ cứng lòng thì sao? Lời Chúa của Chúa Nhật XXXIII B sẽ cho thấy tính LƯỠNG DIỆN của ngày Tận Thế.

Bài đọc 1 trích từ sách ĐANIEN nói về “Thời đó”. Đây là lời khẳng định sớm nhất về sự sống lại cá nhân (CGKPV “các sách ngôn sứ” Trang 641 “t”). Đó là thời cùng tận, thời Thiên Chúa can thiệp dứt khoát để đưa công trình sáng tạo, cứu độ của Người đến chỗ hoàn tất. Cách nói “thời đó” không ám chỉ một ngày giờ nhất định; Nhưng theo những gì Thiên Chúa đã hành động trong dòng lịch sử như cứu dân khỏi Ai Cập, can thiệp giúp dân hồi hương, tái thiết Đền Thờ… thì “thời đó” ám chỉ tính cách CHẮC CHẮN có của những gì Thiên Chúa đã hứa. “Thời đó” là thời như thế nào? Tính lưỡng diện của “thời đó” trong bài đọc 1 khá rõ:

1/ Nét tiêu cực, đáng sợ chỉ được đề cập đến trong hai ý: đó là “thời ngặt nghèo chưa từng có” (12,1b); đó là thời “để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (12,2c) nhưng chỉ dành cho kẻ gian ác thôi. Còn đối với Dân Chúa thì

2/ Đó là thời “Micaen, Đấng che chở dân Chúa, sẽ đứng lên” (12,1a), nghĩa là ơn cứu độ đến từ trời và là thời dân Chúa sẽ thoát nạn (12,1c), thời mà cá nhân con người sẽ được phục sinh để hưởng phúc trường sinh (12,2a), là thời các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ (12,3)

Là dân Chúa ta hãy sống khía cạnh tích cực của “Thời đó”.

Với cách nói đầy nét ẩn dụ của thể văn Khải huyền, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày cho chúng ta vài nét có liên quan đến vấn đề Quang Lâm:

1/ Chắc chắn sẽ có ngày Quang Lâm: các cách nói “mặt trời sẽ ra tối tăm”, “mặt trăng không còn chiếu sáng”, “các ngôi sao từ trời sa xuống” … hàm ý rằng những quyền lực tưởng chừng là vững bền mãi mãi thì rồi cũng sẽ phải qua đi. Ngoài ra các tinh tú còn là biểu tượng của các tà thần dân ngoại tôn thờ; Tất cả quyền lực giả trá ấy sẽ bị hủy diệt vào ngày Quang Lâm. Thế giới này sẽ qua đi nhường chỗ cho TRỜI ĐẤT Mới.

2/ Tuy nhiên đó lại là NGÀY VUI MỪNG cho những ai tin thờ Thiên Chúa, bởi vì Con Người quang lâm để tụ họp họ lại đưa họ vào trong vinh quang thần linh của Người (13,27).

3/ Tin Mừng chỉ xác nhận “CÓ QUANG LÂM” còn thời điểm, cách thức thì không hề nói đến. Đó là bí mật của Chúa Cha.

Tóm lại, giữa cảnh bát nháo của trần gian, các tín hữu được mời gọi can đảm kiên trung với đức tin vào Đức Giêsu. Niềm xác tín có ngày Quang Lâm – Đức Giêsu ngự đến tóm thu mọi sự dâng về Cha hoàn tất công trình sáng tạo – cứu độ (x.1Cr 15,24-28) – luôn là động lực giúp tín hữu sống tốt đức tin của mình trong hiện tại.

Bài 2

Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang đến trong đám mây (c.26) … và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn (c.27b) … Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (c.31).

Chúng ta đang tiến dần đến những ngày cuối của niên lịch phụng vụ. Trọng tâm của Lời Chúa trong những ngày này là: “Ngày Cánh Chung”. Đó là thời điểm Thiên Chúa sẽ can thiệp cách dứt khoát để đưa công trình sáng tạo và cứu độ của Người đến chỗ hoàn tất.

Theo đức tin Kitô giáo, dòng thời gian lịch sử vũ trụ được biểu tượng bằng một “ĐOẠN THẲNG có định hướng”: Khởi đầu là công trình Sáng Tạo của Thiên Chúa và kết thúc là “Ngày Tận Thế”. Đức tin cũng xác quyết rằng: mọi sự Thiên Chúa dựng nên, khởi đầu đều là tốt đẹp, và Thiên Chúa hài lòng vì công trình ấy và “Ngày Tận Thế” là ngày Thiên Chúa đưa công trình sáng tạo tới chỗ hoàn thiện. Thế nhưng con người đã sa ngã, xa lìa Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, nguồn sáng nên đã làm cho dòng lịch sử nên tối tăm, bất hạnh, xáo trộn. Và tầm nhìn của nhân loại vì đã khước từ được soi dẫn bởi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, rồi thay vào đó bằng tầm nhìn của thù hận, ganh tỵ, bạo lực, … – nên việc gặp gỡ Chúa trở thành đáng sợ, con người trốn tránh Thiên Chúa và “Ngày Tận Thế” trong tâm trí của tội nhân trở thành “ngày phán xét”, ngày kết tội.

Nhưng Thiên Chúa là Đấng Công Chính tuyệt đối, Người vẫn trung tín với dự tính sáng tạo ban đầu của Người. Bội phản, tội lỗi của con người có thể làm cho “đoạn thẳng lịch sử” bị chùng xuống, bị cong queo, uốn éo, xáo trộn… nhưng mạch sống của Thiên Chúa vẫn lưu chuyển trong đó, dòng lịch sử cứu độ không bao giờ bị cắt đứt, ý định yêu thương quan phòng hồi phục của Thiên Chúa vẫn luôn là “Vectơ định hướng” cho dòng thời gian. Do đó “Ngày Tận Thế” vẫn là ngày mà Tình Yêu Quan Phòng của Thiên Chúa đưa nhân loại vào “Trời mới Đất mới”, vẫn là ngày hoàn tất ơn cứu độ. Hãy đọc kỹ lời trong Sách Khải Huyền: “Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa… Các tôi tớ Chúa sẽ thờ phượng Chúa… sẽ không còn đêm tối nữa…” (Kh 22,3-5). Vậy đó là ngày Thiên Chúa thống trị. Một khi Thiên Chúa công khai biểu lộ uy quyền thì những gì chống đối Thiên Chúa như bóng tối, sự chết, tội lỗi, bất an, xáo trộn, … sẽ không tồn tại được nữa. Vậy những cái sẽ bị tiêu diệt là những yếu tố (thực ra là Thiên Chúa không tạo dựng chúng, nhưng chúng xuất hiện là do con người làm xáo trộn trật tự ổn định của công trình sáng tạo mà ra, đến lúc Chúa can thiệp ổn định lại trật tự thì sự loạn lạc phải tan biến thôi) gây ra bất hạnh, náo loạn cho vũ trụ, cho con người; Chứ công trình sáng tạo, những gì Chúa tạo ra vẫn còn nguyên và được hồi phục. Thế lực chống đối Thiên Chúa vẫn còn đó nhưng bộ mặt gian dối của chúng bị phơi bày, chúng không quyến rũ, lừa dối, hại được ai nữa. Chúng chỉ tự nhốt mình trong sự cứng lòng của chúng mà thôi.

Như vậy lịch sử nhân loại được khai mở trong sáng tươi và hạnh phúc (Vườn Địa Đàng) và kết thúc trong tươi sáng, phúc vinh (Trời mới Đất mới). Và cuộc sống nhân loại đang trải qua trong dòng lịch sử với những sướng khổ, tối sáng, thăng trầm, tốt xấu… đan chen vào nhau đang diễn ra giữa hai cực tươi sáng, hạnh phúc trên. Và thực sự, con người chỉ khám phá được ý nghĩa cuộc sống hiện tại, và cuộc đời hiện tại đáng sống là nhờ ánh sáng của hai cực của công trình yêu thương của Thiên Chúa.

Và cuối cùng Tình Yêu Thiên Chúa sẽ thắng lòng chai cứng của con người và Trời mới Đất mới sẽ xuất hiện. Đó là Ngày Tận Thế. Vậy Ngày Tận Thế là ngày hội lớn của toàn thể nhân loại, ngày mà quyền năng Thiên Chúa thống trị, ngày mà Tình Yêu Thiên Chúa hiệp nhất muôn loài.

Tuy nhiên phần con người, mỗi người đều là “hình ảnh của Thiên Chúa”, mỗi người là một ngôi vị độc đáo không ai thay thế được, cũng phải đảm nhận vận mạng mình, đích thân nói lên tiếng nói chung cuộc của đời mình trước dự tính của Thiên Chúa. Cuộc đời trần thế của mỗi người chính là lời đáp trả đó: giữa bao hỗn độn, tăm tối của cuộc đời, người của Chúa vẫn nhận ra được ánh quang từ “hai nguồn sáng” mở đầu và hoàn tất công trình Thiên Chúa và trung tín đi theo hướng đã được Thiên Chúa chỉ dẫn.

Lời Chúa hôm nay loan báo ngày cánh chung chắc chắn sẽ tới, ý nghĩa của ngày đó và cũng hàm chứa lời mời gọi mỗi người hiện tại hãy sống sao để cho khi ngày ấy tới tất cả sẽ vui mừng được Chúa tập họp, xếp vào hàng ngũ những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

BÀI ĐỌC 1: Đn 12,1-3

Bài đọc 1 trích từ sách ngôn sứ Đaniel. Sách gồm 14 chương và được viết bằng ba thứ ngôn ngữ khác nhau:

  • Tiếng Do Thái gồm 1,1 – 2,4a và các chương 8 – 12

  • Tiếng Aram: được tách làm 2 phần 2,4b – 3,23 và 3,24 – 7,28 chen vào giữa 2 phần trên là một đoạn bằng tiếng hi lạp.

  • Tiếng hi lạp: phần chen giữa 2 khối tiếng Aram nói trên, được đánh số thứ tự là 3,24* – 90*; và hai chương 13 và 14.

Sách được viết vào khoảng thế kỷ II TCN, vào thời kỳ người Do Thái bị bách hại về tôn giáo bởi vua Antiôkhô Epiphane IV, quan trọng để củng cố nâng đỡ đức tin của dân trong cảnh khốn cùng. Nhưng để tránh tai mắt của chính quyền đương thời nên Sách Đaniel mượn một khung cảnh lịch sử giả là bối cảnh của thế kỷ VI TCN thời các vua Babylon. Sách ủng hộ cuộc thánh chiến của nhà Macabê chống lại các bạo chúa bách hại đạo. Nội dung sách gồm 3 phần:

1/ 1,1 – 6,29: gồm sáu câu chuyện về ông Đaniel và ba người bạn Do Thái tại triều đình Babylon dưới thời các vua được sách Đaniel gọi tên là Nabucodonosor, Balthasar, Darius (2 vua sau thật sự không có tên trong danh sách các vua Babylon).

2/ 7,1 – 12,13 nói về các thị kiến:

  • Giấc mộng của Đaniel về bốn con thú, về Đấng Lão Thành và về Con Người (7,1-28)

  • Thị kiến “cừu đực và dê đực (8,1-27); và lời tiên tri về “70 tuần” thử thách mà dân Chúa phải trải qua (9,1-17)

  • Thị kiến lớn về ngày cánh chung, báo trước Thiên Chúa sẽ can thiệp và ngày tàn của bạo chúa (10,1 – 12,3)

3/ Hai chương 13 và 14 là phần phụ trương gồm một số câu chuyện riêng rẽ: – Chuyện bà Suzana (chương 13). – Chuyện Đaniel chống lại các mê tín, mưu đồ lừa đảo của các tư tế dân ngoại và Thiên Chúa đã bảo vệ Đaniel. Hai chương này chủ yếu cho thấy Thiên Chúa bảo vệ những ai ngay chính sống theo đường lối Chúa.

Bài đọc 1 trích từ phần cuối của “thị kiến lớn”, liên quan tới thời cánh chung. Đoạn văn xác tín rằng chắc chắn Chúa sẽ can thiệp: đó là thời kỳ khắc nghiệt cho kẻ gian ác, nhưng lại là thời hồng ân cho kẻ sống ngay lành.

1/ Thiên Chúa loan báo cho Đaniel việc can thiệp giải cứu (c.1)

* “Thời đó”: thời điểm Chúa can thiệp giải cứu chỉ nói là “Thời đó”. Đó là thời cùng tận, thời Thiên Chúa can thiệp dứt điểm để hoàn tất lịch sử cứu độ. “Thời đó” không ám chỉ một ngày giờ nhất định (thời điểm đó là bí mật của Thiên Chúa Cha) nhưng là một giai đoạn được mở đầu với công cuộc nhập thể của Đức Giêsu và kết thúc vào Ngày Tận Thế, ngày Người quang lâm.

*Tác nhân Thiên Chúa dùng để thực hiện việc giải cứu:

Đọc lại lịch sử cứu độ, ta thấy mỗi lần Chúa ra tay cứu dân khỏi một bạo quyền trần thế thì Người đều sử dụng một nhân vật trung gian thích hợp để làm công việc đó: Thời Xuất Hành, Chúa dùng Môsê; Thời thống nhất sơn hà, Chúa dùng Đavit; Thời Hồi hương, Chúa dùng Giôsuê Thượng Tế và Dơrupvaven; và giờ đây:

Đối tượng được Chúa cứu không chỉ là dân người mà còn là “mọi kẻ gặp thấy ghi danh trong cuốn Sách của Thiên Chúa”, cách nói hàm ý rằng số người được cứu là tất cả nhân loại chứ không chỉ riêng là người Do Thái. Và bạo chúa, kẻ thống trị lần này không phải là một thế lực giới hạn nào đó của trần thế mà là “Tử Thần”: mọi người đã chết đều sẽ sống lại (c.2), tất cả mọi người được giải thoát khỏi dòng thời gian đi vào vĩnh cửu (tức Trời Đất Mới mà sau này Sách Khải Huyền sẽ nói tới) “muôn đời muôn kiếp” (c.3)

Vì thế tác nhân Thiên Chúa dùng lần chung cuộc này để đưa vũ trụ, tạo thành vào vĩnh cửu là một nhân vật thiên giới không bị khống chế bởi thời gian, không gian. Nhân vật đó, Đaniel được Thiên Chúa mặc khải cho là Micae (c.1)

Vào thế kỷ II TCN, việc học hỏi về các thiên thần phát triển mạnh trong Do Thái giáo. Văn chương khải huyền gán cho mỗi quốc gia một thiên thần bảo hộ, được gọi là “ông hoàng” (prince) (x. Đn 10,13-20b). Nghiên cứu thuần lý trong Do Thái giáo về các thiên thần, người ta thấy có từ ba đến bảy “ông hoàng” hạng nhất, về sau các vị này được gọi là tổng lãnh thiên thần. Trong Kinh Thánh xuất hiện ba vị là:

  • Raphaen = “Thiên Chúa chữa lành (Tb 3,17; 12,15)

  • Gabrien = “Anh hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16; 9,21)

  • Micaen = “Ai được như Chúa”. Chính vị này được trao cho nhiệm vụ coi sóc cộng đoàn dân Chúa (Đn 10,13-21; 12,1). Tên của các thiên thần không phải là tên gọi do bản tính nhưng là do chức vụ (ĐN TH TK “Thiên Thần”; DEB, “Archange”) Bổn phận các thiên thần là phục vụ ơn cứu độ của con người theo Ý Chúa.

*Tính lưỡng diện của “Thời đó

Là “Thời ngặt nghèo” cho kẻ ác: “Thời ngặt nghèo” ám chỉ thời gian xảy ra một tai họa trầm trọng. Cơn khủng hoảng đạt tới cực điểm là chính vào lúc sắp diễn ra cuộc giải thoát. Về lịch sử, các tai họa đó có thể ám chỉ những xáo trộn về mặt chính trị nổi lên dữ dội tại Palestin sau cái chết của vua Antiôkhô IV và dưới thời ông Gionathan (x. Mcb 9,27) (CGKPV “các sách Ngôn Sứ” 640 s)

Nhưng là thời vui mừng cho Dân Chúa: Tiêu chuẩn để chọn lựa được đưa ra ở đây để được làm dân Chúa không dựa trên huyết thống, nhưng dựa trên lòng trung tín của họ đối với Thiên Chúa và “được ghi tên vào trong cuốn sách của Người” (x. Is 4,2-3 và nốt “n” Sđd trang 41)

2/ Nét đặc thù mới mẻ của thời được giải thoát (c.2)

*Xác loài người sẽ sống lại: “trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy”. “Những”, “nhiều” ám chỉ số đông, tập thể chưa chủ ý nhắm vào tình trạng cá nhân của ai.

*Nhưng số phận của mỗi người thì lại khác nhau: “người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời”.

“Người thì”, “kẻ thì” ám chỉ từng cá nhân với những nét riêng biệt của từng người.

Câu 2 này là lời khẳng định sớm nhất về sự sống lại cá nhân được Kinh Thánh nói tới. “Phúc trường sinh” được dịch sát là “sự sống đời đời”, từ ngữ này được xuất hiện đầu tiên ở đây (CGKPV Sđd 641 “t”). Trong suốt dòng lịch sử, cho dù dân Chúa có vô ơn, phản loạn đến đâu, Chúa có nổi giận phạt nặng đến đâu thì cuối cùng Người cũng ra tay cứu dân. Nhưng dân Chúa (nhân loại, Giáo Hội) vẫn cứ sa đi ngã lại… Phải tiêu diệt tên “đầu sỏ”. Khi “Thời đó” đến, Thiên Chúa can thiệp quyết liệt, tiêu diệt kẻ thù cuối cùng là Tử Thần và giải thoát nhân loại… (TOB 1713 “a”).

Tuy nhiên niềm tin xác thể từng cá nhân sẽ sống lại được hé mở từ từ:

  • Thoạt đầu người Do Thái tin rằng kẻ chết dù công chính hay gian ác đều bị giam vào Shéol = “Âm phủ” (x. Từ điển Công Giáo) (G 30,23; Ed 31,14-18). Đã vào đó rồi thì không bao giờ ra khỏi được (G 7,9; Tv 49,15), chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát vong nhân khỏi đó được (1Sm 2,6; Am 9,2; Tv 9,14; 49,16). Đó là nơi không có ánh sáng (G 10,21-22), trong đó không ai ca tụng Chúa (Is 38,18; Tv 6,6; 88, 11-30)

  • Giai đoạn tiếp sau, tầm nhìn tiến bộ hơn một chút: dù còn ở chung trong Shéol, nhưng tình trạng của người lành và kẻ ác thực ra khác nhau: kẻ gian ác phải ở dưới đáy vực sâu âm phủ, bị giam cầm chờ ngày lãnh án phạt (Is 24,21-22), còn dân Chúa dù vẫn còn trong Âm Phủ nhưng để CHỜ được Thiên Chúa đưa ra khỏi đó vào thời Chúa can thiệp (Ed 37,1-14: ở đây nhấn mạnh hơn khía cạnh tập thể của cuộc phục hồi: hồi sinh dân Israel khỏi lưu đày).

  • Giai đoạn tiếp theo mặc khải được nâng cao hơn một nấc nữa: người ta khám phá rằng người công chính sẽ được hồi sinh vì Chúa không để người công chính hư nát trong phần mộ, bị giam cầm vĩnh viễn trong Âm Phủ (Tv 16,9-10; Tv 49,16 …). Người công chính sẽ được “thức giấc” chiêm ngưỡng Thánh Nhan (Tv 17,15)

  • Đến thời Macabê, nội dung mặc khải được bổ sung: tất cả mọi cá nhân trong dân Chúa đều được sống lại nhưng kèm theo sự phán quyết công minh cho từng cá nhân (Đn 12,2); Còn dân ngoại tàn ác thì không được sống lại (2 Mcb 7,14).

  • Chỉ đến thời Tân Ước, sự phục sinh cho mọi ngườ và cho từng cá nhân mới được mặc khải đầy đủ; kèm theo mặc khải về sự phán xét dựa trên những gì cá nhân đã làm khi còn sống ở trần gian

3/ Số phận tốt đẹp của người lành (c.3)

Những người sống lành thánh được gọi là hiền sĩ. Vào “Thời đó”, số phận của họ “sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ”, “sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”. Đó là cách nói để diễn tả sự sống vĩnh cửu! Vì so với cuộc sống chỉ một trăm năm của con người thì sự tồn tại của “bầu trời”, “tinh tú” quả là vô tận. Rồi trong công trình Sáng Tạo, “ánh sáng” và “bầu trời” là hai thọ tạo hữu hình đầu tiên Thiên Chúa dựng nên (St 1,3-7). Và khi Thiên Chúa hoàn tất dòng lịch sử cứu độ thì “Ánh sáng” là Thiên Chúa sẽ hiển trị khắp nơi (Kh 22,5).

Vậy phần thưởng của người lành là được trở nên giống Thiên Chúa, sáng láng muôn đời, hoàn tất ơn gọi “con người là hình ảnh Thiên Chúa”.

“Hiền sĩ” là ai? Là “những ai làm cho người người nên công chính” Thực ra chẳng ai là công chính trước Thiên Chúa; con người được nên công chúng là nhờ ơn Chúa ban (Rm 3,20; 5,18b-19). Đức công chính là thuộc tính của Thiên Chúa (x.Is 5,16; G 14,17b) và Thiên Chúa sẽ can thiệp quyết liệt, dứt khoát để làm cho sự công chính của Người thống trị trên toàn thể mọi loài vào thời Người định (Is 46,13): Chính Thiên Chúa Đấng Công Chính làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu nên công chính (Rm 5,25b-26). Thiên Chúa vừa là Đấng Công Chính vừa là Đấng làm cho người khác nên công chính.

Vậy khi “làm cho người người nên công chính” là “hiền sĩ” đang dần trở nên giống Chúa, để Thiên Chúa hoàn thiện dần nơi bản thân mình “hình ảnh của Thiên Chúa”. (Nghỉ Sabat, đi lễ Chúa Nhật hàng ngày cũng vậy….)

Như vậy ngay trong thời Cựu Ước, dân Chúa cũng đã được hé cho thấy rằng “Thời đó”, “Ngày Tận Thế” là ngày mừng vui, hạnh phúc. Ngày mà Thiên Chúa, Đấng Công Chính, hoàn tất sự công chính của Người nơi các tạo vật, làm cho mọi thọ tạo lộ rõ hết bản chất thật nơi mình rồi đón nhận hồng ân chung cuộc đúng theo những gì mà từng người lúc sinh tiền đã tỏ hiện.

TIN MỪNG: Mc 13,24-32

Hoạt động công khai của Đức Giêsu chấm dứt ở chương 12. Chương 13 nói về chủ đề Cánh Chung và hai chương 14 và 15 là cuộc thương khó và Thập Giá của Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay trích từ chương 13, đề cập đến biến cố Quang Lâm của Con Người. Lời Chúa không nói đến ngày giờ, điềm báo của biến cố mà chỉ cảnh báo chắc chắn là có ngày Quang Lâm và nhắc nhở điều phải làm trong hiện tại là “phải tỉnh thức sẵn sàng”, phải luôn ở trong tư thế chuẩn bị, phải canh thức (13,33-37).

Một chi tiết khác mà Lời Chúa muốn nhắc nhở là phải hiểu cho đúng ý nghĩa của Quang Lâm. Đó là lúc Con Người đến biểu lộ quyền năng và vinh quang của Người. Để làm gì? Tin Mừng cho luôn câu đáp: “để tập họp những kẻ được Người tuyển chọn…” (13,27). Đó là ngày vui, ngày hội lớn, ngày sum họp và cũng có thể ví von một chút, đó là “Ngày Tết vĩnh cửu” của tất cả những ai đã tin vào Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay mời chúng ta, trong khi chờ Quang Lâm hãy kiên vững trong đức tin là có Quang Lâm và tươi vui trong đức trông cậy rằng đó là ngày sum họp toàn thể tạo thành “từ đầu mặt đất cho tới cuối chân trời” (13,27) nhờ Con Người sai các thiên thần quy tụ (13,27a).

1/ Ý nghĩa của Ngày Quang Lâm (13,24-27)

*Trong “những ngày ấy” …: (Am 8,11; 9,13; Gr 49,2; 50,4…) cũng có lúc dùng ở số ít “ngày ấy” (Ge 4,18; Is 17,7; 19,16.23.24…) là thuật ngữ Kinh Thánh dùng để nói lên sự can thiệp trọng đại của Thiên Chúa vào lịch sử để phán xét thế gian và cứu rỗi những người tin tưởng (ĐN TH TK “Ngày của Chúa”). Áp dụng vào lịch sử nhân loại, đó là ngày Thiên Chúa hoàn tất ý định cứu độ của Người; Riêng trong bài đọc Tin Mừng hôm nay việc hoàn tất đó được diễn đạt ra qua ba hình ảnh:

*Đó là ngày quyền lực của thế gian bị hủy diệt: “…mặt trời sẽ ra tối tăm… các quyền lực trên trời sẽ bị lung lay” (13,24b-25). Đó là lối ngôn ngữ truyền thống thường được dùng để loan báo rằng Thiên Chúa sẽ can thiệp cách đặc biệt vào lịch sử, khuất phục các quyền lực sự dữ (Is 13,10; 31,4; Ed 32,7; Ge 2,10; 3,4; Am 5,18.20; 8,9; Xp 1,15…)

Thật vậy, nên biết rằng các dân tộc cổ đại đông phương thường thờ lạy các tinh tú, ngoại trừ Israel. Đối với họ các tinh tú là những vị thần điều khiển vũ trụ. Do đó cách nói “mặt trời, mặt trăng ra tối tăm, không còn chiếu sáng, các tinh tú bị sa xuống…” hàm nghĩa là tuyên xưng sự chiến thắng của Yavê, Thiên Chúa duy nhất, trên các ngẫu tượng ngoại giáo. Thế giới cũ kỹ phải biến đi, nhường chỗ cho “Trời mới Đất mới” (J. Hervieux “Tin Mừng Marcô”. Chú giải mục vụ – trang 295).

*Đó là ngày Con Người quang lâm biểu lộ uy quyền (13,26):

“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy”: biến cố Quang Lâm được tỏ lộ công khai cho mọi người đều thấy. Do đó mọi lời đồn thổi về sự bí mật, về mặc khải riêng tư bí huyền cho cá nhân này, nhóm nọ đều không đến từ Thiên Chúa.

“Con Người”: theo nghĩa bình thường là một phần tử thuộc nhân loại, một con người. Rồi ngôn sứ Đaniel trong một thị kiến đã thấy một nhân vật như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến, vị này được trao cho quyền thống trị, vương quyền vĩnh cửu, trên muôn người, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ (Đn 7,13-14). Cách diễn tả đó hàm ý Người nhận được một quyền bính thần linh bao trùm toàn thể vũ trụ và trải trên toàn bộ dòng thời gian.

Lúc đi rao giảng Đức Giêsu thường tự xưng là Con Người với quyền năng vượt hơn cả luật (Mc 3,27-28), có được cả quyền tha tội như Thiên Chúa (Mc 2,10).

Vậy “Con Người” ám chỉ Đức Giêsu Kitô Đấng vừa mang nhân tính và thần tính được các ngôn sứ tiên báo (Từ điển Công Giáo – “Con Người”).

  • “Con Người đến trong đám mây” hàm ý đây là lần can thiệp của chính Thiên Chúa, Người đến để hoàn tất lời Cựu Ước loan báo về “Ngày của Đức Chúa” bằng cách cho con người Giêsu xuất hiện trong vinh quang của một vị Thiên Chúa đến thực hiện quyền thẩm phán tối hậu trên toàn thể tạo thành. Đây là giây phút các tín hữu tiên khởi hằng mong đợi vì tin Chúa sẽ đến cứu họ, nên đó là ngày vui.

  • Thật vậy, chính trong tư cách là Vị Thẩm Phán Tối Cao, chung cuộc, Con Người đến để “thâu họp lại những kẻ Người đã tuyển chọn”. Bản văn Marcô trình bày đó như là mục đích của Quang Lâm. Như trong Cựu Ước, kẻ được chọn là Israel được Thiên Chúa tập họp lại (Đnl 30,3-4; Is 27,12; 43,5-7), thì ở đây, chính các Kitô hữu thấy mình được tụ họp từ muôn nơi để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, Chúa của họ, chính là Con Người, Đấng đã từng hứa với họ “Ta ở đâu các ngươi cũng ở đó…” (Ga 14,3).

Tóm lại những ai thuộc về Đức Giêsu, tin nhận Người là Cứu Chúa thì Quang Lâm là ngày mừng vui hy vọng đáng cậy trông. Quang Lâm vừa là một động lực giúp họ sống tốt ở đời này, giúp họ vượt qua bao thử thách, vừa là một điểm đến của niềm trông cậy của họ. Nhưng LÚC NÀO Chúa đến?

2/ Xác tín của tín hữu về Ngày Quang Lâm (13,28-32)

*Các tín hữu TIN chắc rằng có Quang Lâm dựa trên lời Đức Giêsu:

– Ngang qua hình ảnh minh họa về “cây vả” (13,28-29): dấu chỉ về Quang Lâm đã được Chúa đặt để trong thiên nhiên để nhắc nhở con người: khi nhìn thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc thì mọi người đều biết chắc rằng mùa hè sắp tới. Và theo tầm nhìn của nhiệm cục cứu độ, mặc khải tiệm tiến thì ngay từ trong Cựu Ước, các hình ảnh mùa hè và mùa gặt đã được liên kết với lời loan báo về sự tận cùng, sự phán xét và sự giải thoát chung cuộc (Ge 4,17; Am 8,1; Is 28,4; Gr 8,20…). Do đó khi thấy các hiện tượng được loan báo trong các câu 24-25 thì các tín hữu được nhắc nhở rằng chắc chắn có Quang Lâm; cuộc đời này thế giới này sẽ qua đi, vậy hãy sống sao cho phù hợp để khi Quang Lâm đến thì đó là NGÀY VUI cho mình. Bản văn không hề khẳng định về thời điểm, điềm báo cụ thể của Quang Lâm. Những hiện thượng được mô tả chỉ muốn nói rằng thế giới hiện tại này đang mục nát dần, không thể tồn tại mãi trong tình trạng bất toàn, thoái hóa như vậy được, Nó phải qua đi. Và Quang Lâm chính là thời điểm Thiên Chúa can thiệp mạnh chung cuộc giúp dọn dẹp đi những gì hư hoại tích lũy từ bao đời mà nhân loại chưa chịu thanh lý hay chưa thanh lý xong, để thay vào bằng Trời mới Đất mới.

Tóm lại 13,28-29 chỉ mang đến một sứ điệp: chắc chắn có Quang Lâm.

  • Điều quan trọng đối với tín hữu trong hiện tại đang khi “chờ có ngôi nhà mới” là phải dọn dẹp “ngôi nhà cũ” xem cái gì quá mục nát thì phải dọn ngay trong hiện tại chứ không ỷ lại chờ Chúa đến dọn dẹp giùm một cú dứt điểm trong ngày quang lâm; Đồng thời phải chuẩn bị mua sẵn vật liệu xây dựng, lo chạy “giấy tờ” để khi thời điểm tới là “xây ngay” và Chúa sẽ sai thiên sứ đến giúp hoàn tất. Đừng chần chừ, ỷ lại kẻo khi Chúa sai thợ (thiên thần) đến tập họp, khởi công mà ta chưa chuẩn bị gì thì khốn.

  • “Trời đất này rồi sẽ qua đi, nhưng…” đây là lời của Đức Giêsu khẳng định thêm rằng chắc chắn có Quang Lâm.

*Thời điểm, điềm báo: đó là điều con người mong đợi, nhưng Đức Giêsu đã nói thẳng: “không ai biết được điều đó ngay cả các thiên sứ trên trời, hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (13,32). Trong thân phận làm người như chúng ta, Đức Giêsu cũng đã chấp nhận mọi giới hạn của phận làm con người, tạm giấu ẩn những đặc nét thần linh vì ích lợi cho nhân loại (x.2Cr 8,9; Pl 2,6-7). Và nét độc đáo của Tin Mừng Marcô là khi Đức Giêsu chia sẻ triệt để phận làm con người theo ý Cha (không “ăn trái cấm”: biểu lộ không đúng lúc uy quyền thần linh) lúc ấy thần tính của Người được tỏ lộ (Mc 15,39).

Đây là bài học lớn cho chúng ta, nhắc lại cho chúng ta ý định nguyên thủy của Thiên Chúa: trong thân phận thụ tạo (nhân tính của Đức Giêsu là một thụ tạo giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi), chúng ta đừng đòi tự sức chiếm đoạt những tri thức dành riêng cho Thiên Chúa (x.St 2,17 luôn là một cám dỗ, một “trái cấm” cho trí tuệ nhân loại). Hãy kiên trì chờ ngày Thiên Chúa thông ban đúng thời đúng lúc (Chúa không ích kỷ, dành độc quyền đâu vì “tất cả những gì của Cha đều là của con: Lc 15,31). Và Chúa đã ban tất cả cho chúng ta trong Đức Giêsu (Ga 15,15) nhờ Chúa Thánh Thần (Ga 16,12-15). Đức Giêsu đã đến ở cùng chúng ta, Người đã hủy diệt sự mục nát nơi nhân tính chúng ta nhờ phục sinh và Người đã đi trước chỉ là để dọn chỗ cho chúng ta, rồi sẽ quang lâm để đem chúng ta đến ở với Người luôn mãi:Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”(Ga14,1-3)

TÌM HIỂU 2 BÀI ĐỌC

Đnl 12,1-3  và   Mc. 13, 24-32

Chủ điểm phụng vụ

          Trong những tuần cuối của năm phụng vụ, các bài đọc thường hướng về ngày cánh chung. Đó là thời điểm Thiên Chúa can thiệp cách mạnh mẽ để hoàn tất chương trình sáng tạo – cứu độ của Người. Tất cả những khốn khó xảy ra trước thời điểm đó như trong Kinh Thánh trình bày là những dọn đường, thanh lọc chuẩn bị cho chiến thắng chung cuộc của Thiên Chúa: Lời Chúa hôm nay loan báo thời cánh chung chắc chắn sẽ tới và dùng một số hình ảnh biểu tượng truyền thống mô tả ngày ấy.

Bài đọc một mô tả thời Thiên Chúa can thiệp bằng hình ảnh Micae, đấng che chở dân Chúa, ĐỨNG LÊN. Đó là thời kỳ ngặt nghèo cho kẻ ác nhưng là thời giải cứu cho những ai thuộc về Chúa.

So với Cựu Ước, có một nét mới mẻ xuất hiện lần đầu ở đây, làm nổi bật nét đặc thù của thời cánh chung: đó là niềm tin rằng xác của toàn thể loài người sẽ sống lại và sống lại với tư cách cá nhân. Tuy nhiên số phận từng người lại thay đổi tuỳ theo lối sống của họ khi tại thế.

Tin Mừng, qua các hình ảnh khải huyền truyền thống, mô tả ngày Quang Lâm của Con Người. Trong vinh quang, Người sẽ ngự mây trời mà đến, tập họp những kẻ Người đã tuyển chọn từ bốn phương trời về. Đức Giêsu xác định chắc chắn điều ấy phải xảy ra (Mc 13, 30 – 31). Tuy nhiên ngày giờ của ngày đó thì Người không hé lộ vì đó là bí mật của Cha, không ai biết được, kể cả người Con trong thân phận phàm nhân.

Cách nói bình dân thì gọi đó là NGÀY TẬN THẾ

Khi nghe nói đến Tận Thế nhiều người nghĩ ngay họa hủy diệt. và phản ứng của con người là đôn đáo, tìm đủ mọi cách để đối phó (?) Nếu “tận thế” là ngày hủy diệt, và theo cách nói của Mc 13,25, đó là ngày” các ngôi sao từ trời sa xuống” trái đất được hiểu theo nghĩa đen, thì thân phận sâu bọ tí tẹo của con người sẽ đối phó bằng cách nào đây? Nếu chúng ta biết rõ ngày giờ của “tận thế”, biết rõ những dấu chỉ báo trước ngày TRỜI SẬP thì chúng ta làm được gì để thoát nạn?. Làm hầm tránh bom nguyên tử? Nực cười! Mặt trời mà  trái đất thì…?

 Thực ra “tận thế” là thời điểm chấm dứt dùng thời gian, chấm dứt lịch sử. Đó là đức tin Kitô giáo. Lúc ấy những gì là giới hạn sẽ qua đi. Cái cũ kỹ, Cái tạm thời phải nhường chỗ cho TRỜI ĐẤT MỚI vĩnh tồn trọn hảo. Đó là thời điểm Chúa can thiệp mạnh đưa toàn thể vũ trụ hữu hạn này vào trong vinh quang bất diệt của Chúa. Tuy nhiên đối với con người Chúa vẫn tôn trọng tự do của từng cá nhân: chọn vào Trời Đất mới do Chúa mang đến, hay cứ khư khư bám vào cái hư nát chóng qua. Nếu chọn những cái hư nát chóng qua thì đúng đó là hủy diệt, đơn giản chỉ vì chúng đã được nâng của thành cái mới. Nếu toàn thế giới đổi mới hệ thống số di động mà ta cứ bám vào “cục gạch” và số cũ của mình thì đúng là mất tất cả, dữ liệu cũ bị hóa ra như bị hủy diệt trong cái hệ thống mới này. Ta tự loại mình ra khỏi cuộc sống mới này. Ngày tận thế là ngày hồng ân cho ai sống ngay chính nhưng là ngày đáng sợ cho kẻ gian tà, vì đó là ngày Chúa công khai tỏ lộ uy quyền vạch mặt “Con Rắn” (như trong vườn Eđen) và các tay sai của nó,quan trọng đòi lại lẽ công bình cho người ngay chính, mọi che dấu, lọc lừa đều bị phơi bày; thực chất của mọi vật đều được ánh sáng Chúa soi tỏ. Lúc đó sự công minh của Chúa hiện lộ tỏ tường làm Rắn phải hoàn toàn câm miệng nhận án. Đó là thời điểm Chúa hoàn tất dứt điểm lời hứa “đạp đầu Rắn” (x. St 3, 15). Đó đúng là ngày HỦY DIỆT, nhưng là hủy diệt sự dữ, dối trá; Là ngày khôi phục hoàn hảo điều “TỐT” của công trình sáng tạo và đưa tới mức hoàn thiện, vĩnh tồn. Sự hồi phục trọn hảo trong ngày ấy sẽ làm thân xác kẻ chết sống lại để ai lúc sinh tiền sống cuộc đời lành thánh sẽ được phúc trường sinh cả hồn lẫn xác (bài đọc 1: Đn 12, 2). Đó là ngày Đức Giêsu tập họp những ai Người đã tuyển chọn để ân thưởng. “Tuyển chọn” là cách nói diễn tả những người sống theo lệnh Chúa vì trước khi ra đi chủ đều trao cho mỗi người một số vốn (x. 19, 12-13).

         Vậy “tận thế” là ngày vui cho những ai sống công chính theo đường lối của Thiên Chúa. Đó là ngày mà mọi nỗ lực, tín trung của họ được chính Thiên Chúa đích thân đền bù xứng đáng, dư dật.

          Cách nói dữ dằn: trời sập, thiên tai, địch họa…chỉ là lối diến tả theo thể văn khải huyền nhăm loan truyền một sứ điệp. Đó là sẽ có một thời điểm chắc chắn sẽ tới, Thiên Chúa sẽ can thiệp mạnh mẽ để hoàn tất công cuộc sáng tạo, cứu độ của Người: mọi giới hạn, mọi thứ gian tà, xảo trá sẽ bị hủy diệt, còn người công chính sẽ vĩnh viễn hưởng phúc thần linh với Thiên Chúa. Sứ điệp cho hiện tại: kiên trung sống theo đường lối Chúa từng phút giây hiện tại.

BÀI ĐỌC I: Đn 12,1-3

Văn mạch:

Xem Bài Suy NIỆM (phần đầu)

CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH

  1. Loan báo việc can thiệp, giải cứu của Thiên Chúa (Đn 12,1) : Lời Chúa nói với Đaniel:

  • Thời điểm giải cứu: “Thời đó

  • Hình ảnh minh hoạ cuộc giải cứu: “Micaen sẽ đứng lên!”

Người là “Đấng vẫn thường che chở dân người

là vị chỉ huy tối cao”

  • Tính lưỡng diện của thời giải cứu:

  • thời ngặt nghèo chưa từng thấy

  • nhưng là thời giải cứu cho dân người tức là những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa.

CHÚ THÍCH: Xem Bài Suy Niệm

  1. Thiên Chúa loan báo cho Đaniel việc can thiệp giải cứu (c.1)

  • “Thời đó…

  • “Tác nhân được Thiên Chúa dùng để giải cứu

  • tính lưỡng diện của “Thời đó”:

  • là “thời ngặt nghèo” cho kẻ ác…

  • nhưng là thời vui mừng cho dân Chúa…

  1. Nét đặc thù, mới mẻ của thời được giải thoát (Đn 12,2):

  • Xác loài người sẽ sống lại: “trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy”

  • Nhưng số phận thì không như nhau: “người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời”.

CHÚ THÍCH: Xem Bài Suy Niệm:

  1. Nét đặc thù mới mẻ của thời được giải thoát (c.2)

  • Xác loài người sẽ sống lại…

  • Nhưng số phận mỗi người thì lại khác nhau…

  1. Số phận tốt đẹp của người lành (Đn 12,3)

  • Mô tả người lành: HIỀN SĨ là “những ai làm kẻ khác nên công chính”

  • Số phận tốt đẹp: “sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”.

                   CHÚ THÍCH:         X. Bài Suy Niệm

  1. Số phận tốt đẹp của người lành (c.3)

TÓM KẾT:

Bản văn đề cập đến giai đoạn cuối cùng của thế giới. Đó là thời mừng vui cho dân Chúa, vì Người đích thân can thiệp để giải cứu họ và điều mới mẻ bản văn đem lại là CHO HỌ PHỤC SINH CÁ THỂ. Những khó khăn ngặt nghèo đi trước chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Đó cũng là giai đoạn các thế lực thù địch Thiên Chúa đang trong cơn vật vã lồng lên lần cuối, giãy chết để rồi sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn. Tuy nhiên điều con người phải luôn đề phòng là cơn giãy chết của một mãnh thú hung tàn luôn là một hiểm nguy cho những ai kề cận dính bén với nó. Còn đối với những ai bám chặt vào Thiên Chúa thì mọi sự sẽ trôi qua trong an bình. Phần người công chính, hiền sĩ sẽ được phục sinh và sống vĩnh viễn hạnh phúc trong đời sống mới, thành cộng tác viên của Thiên Chúa trong công trình cứu độ làm cho muôn người nên công chính.

TIN MỪNG  : Mc 13, 24-32

      Văn mạch

Hoạt động công khai giữa đám đông của Đức GiêSu được coi như chấm dứt ở ch 12 với 2 lời giáo huấn: phải coi chừng các ông kinh sư (12,38-40: vừa cho đám đông lẫn môn đệ): Tấm gương quảng đại của bà góa (12,41-44: riêng cho môn đệ). Chương 13 là bài giảng cánh chung: trước kiến trúc vĩ đại của Đền Thờ, 1 môn đệ trầm trồ, nhưng Đức Giêsu lại loan báo có ngày Đền Thờ sẽ bị hủy diệt, từ đó các môn đệ đặt ra câu hỏi kép: Khi nào?dấu hiệu nào?. Liên quan tới biến cố đó (13,1-4). Đức Giêsu dường như không trả lời trực tiếp mà chuyển qua một hướng khác: NGÀY QUANG LÂM. Vấn đề không phải là biết ngày giờ, điềm báo của biến cố mà là phải chuẩn bị để đón biến cố: “phải tỉnh thức sẵn sàng” (13,33-37). Trước khi đi đến kết luận trên, nội dung lời đáp của Đức Giêsu gồm:

-13,5-13 đề cập đến các hiểm nguy xảy ra trước thời quang lâm: có kẻ mạo danh Đức Giêsu đến lừa gạt (5-6): chiến tranh (7-8): môn đệ bị ngược đãi và phân ly trong gia đình (9-12): phần này kết bằng 1 câu phân tích về nguyên nhân môn đệ bị ngược đãi, kèm lời khích lệ ai kiên nhẫn đến cùng sẽ được cứu (13)

-13,14-23 mô tả cơn gian nan thử thách tột cùng đối với kẻ tin. Cơn khốn quẫn không tiền khoáng hậu, là “thời ngặt nghèo chư từng thấy” mà Đn 12,1 đã tiên báo sẽ xảy ra trước thời cùng tận. Các quyền lực Satan sẽ tấn công tín hữu cách hung tợn đến độ “ nếu Chúa rút ngắn các ngày ấy lại thì không ai được cứu” (20)

     – Trên cái nền u tối đó, nổi bật lên đoạn văn đang được khảo sát, diễn tả cuộc chiến thắng chung cuộc: “… Con Người…đến trong đám mây…tập họp những kẻ được Người tuyển chọn…” (12,24-27). Rồi Đức Giêsu trở lại câu hỏi được 4 môn đệ đặt ra ở c.4: Người xác định có quang lâm (12, 28-31) nhưng từ chối cho biết ngày giờ vì đó là bí mật của Cha (12,32). Đây là phần được phụng vụ trích làm bài đọc Tin Mừng hôm nay (12,24-32).

Sau đó Đức Giêsu cho thấy thái độ phải có: thay vì lo tìm ngày giờ điểm báo, hãy canh thức, sẵn sàng (12, 33-37).

CẤU TRÚC và CHÚ THÍCH

  1. Ý nghĩa của ngày quang lâm (Mc 13,24-27)

  • Thời điểm quang lâm chỉ nói mơ hồ:… “Trong những ngày ấy, sau cơn gian nan ấy” (24a)

     Đây là ngày Thiên Chúa hoàn tất ý định cứu độ của Người, được biểu lộ qua 3 hình ảnh:

  • Quyền lực của mọi tà thần, kẻ chống đối bị hủy diệt: “mặt trời sẽ ra tối tăm…các quyền lực trên trời sẽ bị lung lay” (24b-25).

  • Con Người quang lâm biểu lộ uy quyền: “bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang đến trong đám mây” (26)

  • Giải cứu những kẻ thuộc về Người: “Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ đi và sẽ tập họp những kẻ Người đã tuyển chọn từ khắp nơi…” (27)

          CHÚ THÍCH:     XEM BÀI SUY NIỆM.

  1. Ý nghĩa của Ngày Quang Lâm  (13,24- 27)

  • “Trong những ngày ấy…

  • Đó là ngày quyền lực của thế gian bị hủy diệt…

  • Đó là ngày Con Người quang lâm biểu lộ uy quyền (13,26)

  1. Lập trường của kẻ tin về Quang Lâm ( Mc 13,28- 32)

  • Xác tín Quang Lâm chắc chắn đến

  • Minh họa: Cây vả đâm chồi là điềm báo mùa hè chắc chắn sắp tới (28)

  • vậy những điều kể trên xảy ra thì hãy chắc chắn là Con Người đã đến gần, ở ngay cửa rồi (29)

  • Lời khẳng định của Đức Giêsu: “ thế hệ này sẽ qua đi trước khi mọi điều ấy xảy ra” (30).

Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31)

  • Về thời điểm của Quang Lâm (32): đó là bí mật của Cha, không ai biết kể cả Con Người.

Phải luôn tỉnh thức biện phân để nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ dọn đường, đó là ý nghĩa của dụ ngôn “ cây vả”. Về mặt tự nhiên, khi cây vả đâm chồi nẩy lộc là dấu chỉ CHẮC CHẮN mùa hè SĂP TỚI. Về mặt biểu tượng, ngay từ Cựu Ước, các hình ảnh mùa hè và mùa gặt đã được liên kết với lời loan báo về sự tận cùng, sự phán xét và sự giải thoát chung cuộc ( Ge 4, 17; Am 8, ; Is 28,4; Gr 8, 20…). Điểm so sánh giữa dụ ngôn “ cây vả” và biến cố Quang Lâm không nằm ở sự kiện mà nằm ở mối tương quan giữa các sự kiện: cũng như cây vả đâm chồi là dấu chỉ CHẮC CHẮN mùa hè SẮP TỚI, thì khi thấy các hiện tượng xảy ra thì phải biết rằng CHẮC CHẮN quang lâm cũng SẮP TỚI. Điểm giống nhau là mối tương quan CHẮC CHẮN SẮP TỚI, chứ bản văn không hề muốn xác định rõ rằng theo nghĩa khoa học lịch sử thời điểm chính xác của biến cố Quang Lâm. Những hiện tượng đi trước cho thấy thế giới hiện tại đang mục nát dần, không thể tồn tại mãi trong tình trạng bất toàn, thoái hoá như vậy được, nó phải qua đi. Và Quang Lâm chính là thời điểm Thiên Chúa can thiệp giúp cho cái hư hoại chóng qua đi để thay bằng trời mới đất mới. Tóm lại cc 28-29 chỉ mang lại một sứ điệp: chắc chắn có Quang Lâm.

Những lời khẳng định của Đức Giêsu (cc 30-31) càng củng cố xác tín trên. Thế hệ này sẽ chẳng qua đi: câu này làm nhiều tín hữu hiểu lầm rằng Quang Lâm sẽ đến ngay trong thế hệ, cuộc đời của họ; Tuy nhiên có lẽ lời này nhắm vào một tương lai gần: thành Giêrusalem bị huỷ diệt cùng với Đền Thờ vào năm 70. Biến cố này xảy ra là một bảo chứng cho lời Đức Giêsu: Quang Lâm chắc chắn có. Đó là một nét đặc thù của lời ngôn sứ: biến cố gần xảy ra bảo đảm cho biến cố xa chắc chắn sẽ xảy tới.

Trời đất qua đi: đối với tác giả Kinh Thánh, trong vũ trụ này không có gì vững chắc hơn là nền móng của trái đất (Tv 93,1; 104,5), mà cho dù chúng có thể qua đi (Tv 102, 27; Is 24,18) thì Lời Chúa vẫn vững bền. Nghĩa là Quang Lâm phải có.

Bí mật của Cha; Con cũng không biết thời điểm Quang Lâm: trong thân phận làm người giống hệt chúng ta. Đức Giêsu phải chấp nhận tất cả những giới hạn của thân phận làm người nơi nhân tính của Người: 2Cr 8,9; Pl 2,6-7) hầu chia sẻ phận người cách triệt để. Và nét độc đáo của Macco là khi Đức Giêsu chia sẻ triệt để phận làm người theo ý Chúa (không được ăn “trái cấm”) lúc ấy Người biểu lộ thần tính (Mc 15,39). Đây là bài học lớn cho ta, nhắc lại ý định nguyên thuỷ của Thiên Chúa: trong thân phận thụ tạo (nhân tính Đức Giêsu là thụ tạo) chúng ta đừng đòi với tới những tri thức dành riêng cho Thiên Chúa (một “Trái Cấm” cho trí tuệ nhân loại), hãy kiên trì chờ ngày Thiên Chúa thông ban (chắc chắn Chúa sẽ ban: dấu chỉ là Chúa đã cho Ngôi Lời giáng thế mang phận phàm nhân).

TÓM KẾT

Để củng cố cộng đoàn của mình trong cơn bách hại thời Néron, Macco mời gọi các tín hữu sống niềm trông cậy vào việc Đức Giêsu quang lâm:

Thiên Chúa can thiệp, Đức Giêsu sẽ lại đến giải cứu kẻ tin. Lúc ấy mọi quyền lực chống đối Thiên Chúa, bách hại kẻ tin sẽ bị tiêu trừ; Còn những ai trung tín với Thiên Chúa sẽ được tụ họp lại để hưởng phúc cánh chung. Vậy ngày cánh chung là NGÀY MỪNG VUI của dân Chúa. Tuy nhiên thời điểm đích xác của ngày này lại là bí mật của Cha, nên lập trường phải có của tín hữu không là tìm biết ngày giờ của quang lâm, nhưng cứ vững tin rằng Quang Lâm sẽ đến, và đó là lúc Con Người biểu lộ uy quyền tập họp những ai quan trọng trong hiện tại đối với kẻ tin là luôn sống tỉnh thức sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Quang Lâm đến thì mừng vui ra nghênh đón Chúa.

Frère Pierre Đình Long FSC