Học hỏi tông huấn Gaudete et Exsultate của Đức giáo hoàng Phanxico

HÃY AN VUI NHƯNG ĐỪNG AN PHẬN!

(Vài cảm nhận từ Tông huấn Gaudete et Exsultate của Đức giáo hoàng Phanxico)

A/ DÀN BÀI TỔNG QUÁT

I/ DẪN
* Bối cảnh Tông huấn ra đời
* Phân biệt các tài liệu của Giáo hoàng: Tông sắc, hiến chế, Thông      điệp, Tông huấn, tông thư…

II/ BỐ CỤC TÔNG HUẤN GAUDETE ET EXSULTATE – SƠ LƯỢC
III/ NHỮNG ĐIỂM MẤU CHỐT CỦA TÔNG HUẤN
IV/ CÁI NHÌN PHẢN DIỆN VỀ TÔNG HUẤN
V/ CẢM NHẬN VỀ TÔNG HUẤN

B/ CHI TIẾT

I/ DẪN

1/ Bối cảnh Tông huấn ra đời:

– Vào ngày 19.03.18, nhân dịp GH mừng lễ thánh Giuse, tại Đền thờ Thánh Phêrô, và để đánh dấu năm thứ 6 triều đại Giáo hoàng, đức thánh cha Phanxico đã công bố Tông huấn Gaudete et Exsultate: Hãy vui mừng và hân hoan! = Hãy Mừng rỡ hân hoan!

– Tại sao phải viết tông huấn này? Có lẽ bởi vì khi chọn danh hiệu Phanxicô, Đức Giáo hoàng theo gương vị thánh này muốn “sửa sang nhà Chúa”; nhưng việc tái tạo này chỉ có thể thực hiện được khi các phần tử trong Giáo hội đón nhận lời mời gọi nên thánh, chứ không an phận với nếp sống lừng khừng, nhạt nhẽo (s.1). Dù sao, cần phải đánh tan một ngộ nhận. Trong văn kiện này, Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng việc nên thánh không phải là một chuyện cao siêu phi thường, nhưng được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày; tuy nhiên, không có đường nên thánh rẻ tiền, bởi vì nó đặt ra nhiều yêu sách, cụ thể qua việc sống tám mối phúc thật. Tất cả chúng ta đều dư biết rằng việc thực hành các mối phúc không dễ dãi tí nào! Dù sao, tông huấn này không có tham vọng trình bày một thủ bản thần học về sự thánh thiện Kitô giáo nhưng chỉ muốn vạch ra vài thách đố cho việc nên thánh trong thời buổi hôm nay (GE 2).

2/ Phân biệt các tài liệu/ văn kiện của Giáo hoàng: Hiến chế, Sắc lệnh, Tông sắc, hiến chế, Thông điệp, Tông huấn, tông thư, v.v… Tài liệu liên quan Tập thể và cá nhân Đức GH.

Trước khi đi vào nội dung, thiết tưởng nên nói qua đôi lời về hình thức pháp lý của văn kiện để thấy được vị trí tài liệu mà chúng ta đang học hỏi.

Trong hệ trật các giáo huấn của giáo hoàng, đứng đầu là các “thông điệp” (encyclica), kế đến là các “tông huấn” (adhortatio apostolica), và tông thư (littera apostolica). Cho đến nay, đức đương kim giáo hoàng đã ban hành một thông điệp (Laudato si, không kể Lumen fidei viết chung với vị tiền nhiệm) và hai tông huấn (Evangelii gaudium-niềm vui TN, Amoris Laetitia- Niềm vui YT). Đây là tông huấn thứ ba. Không nói ai cũng đoán được, nhiều văn kiện mang tính cách rất chuyên môn (thí dụ Laudato si đụng đến các vấn đề kỹ thuật liên quan đến môi trường) cần nhờ chuyên viên soạn, và Đức Thánh Cha hầu như chỉ đặt bút ký. “Xem văn thì biết người”: văn phong của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (trong thông điệp Lumen fidei) khác hẳn với cách hành văn của tông huấn đang bàn. Tông huấn này mang đậm tư tưởng của đức đương kim giáo hoàng, đã được đề cập khi còn là giám tỉnh Dòng Tên và giám mục ở Argentina.[1]

Sắc lệnh, Hiến chế, Tông huấn, Thông điệp là gì? Hai loại do HĐGM và do ĐGH:

I- Các văn kiện của Công đồng Vatican II gồm có ba loại: Hiến chế (có 4), Sắc lệnh (có 9) và Tuyên ngôn (có 3) đều đặt nền tảng trên Kinh Thánh, Thánh Truyền, Quyền Giáo huấn với hoàn cảnh mới, xã hội thay đổi. Mỗi văn kiện lấy chữ đầu tiên của số một chương một để đặt tên cho văn kiện đó.

– Constitutio (constitution) Hiến chế (hiến là pháp luật, pháp độ; chế là làm ra, đặt ra, bó buộc). Hiến chế giống như hiến pháp là luật căn bản, nền tảng của các luật khác.

Thí dụ: Hiến chế tín lý về Hội Thánh (Constitutio dogmatica de Ecclesia): Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân). Hiến chế nầy là Luật căn bản của tổ chức Hội Thánh: Hội Thánh là một mầu nhiệm kép vì được thành lập do hai yếu tố thần linh và nhân loại, gồm hai thành phần: giáo sỹ và giáo dân. Trước đó, người ta giản lược đời sống Hội Thánh vào hoạt động của hàng Giáo phẩm, giáo sỹ, vô tình gạt giáo dân sang một bên. Bây giờ, Hội Thánh ví như căn nhà có hai mái, một mái là giáo sỹ, một mái là giáo dân. Hai mái hợp lại mơi thành cái nhà. Hội Thánh là Dân Thiên Chúa, vai trò của giáo dân mà sách Tông đồ Công vụ, các thư của Thánh Phaolô cho biết rất quan trọng được phục hồi v.v…

– Decretum (décret, decree) Sắc lệnh (Sắc là chiếu chỉ của vua, lệnh là bố cáo ra, công bố ra). Chín sắc lệnh của Công đồng Vatican II là những luật lệ có đối tượng riêng (Giám mục, linh mục, Chủng viện, Giáo dân làm tông đồ v.v…).

Thí dụ: Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Hội Thánh (Decretum de Activitate missionali Ecclesiae) gọi là Ad gentes (đến với muôn dân) gồm có những nguyên tắc giáo thuyết, các công việc truyền giáo, các Giáo hội địa phương, các nhà Truyền giáo, Tổ chức hoạt động truyền giáo, Sự cộng tác… Dựa vào Hiến chế Tín lý về Hội Thánh gọi Hội Thánh ánh sáng muôn dân (lumen gentium) nên trung tâm và đời sống Hội Thánh là truyền giáo (đưa Chúa đến cho mọi người), Sắc lệnh Ad gentes trình bày Giáo lý cũng như phương cách truyền giáo trong thời đại ngày nay.

– Declaratio (déclaration) Tuyên ngôn (tuyên là bày tỏ cho mọi người biết, ngôn là lời nói). Ba Tuyên ngôn của Công đồng Vatican II nói lên lập trường, chính sách của Hội Thánh về Giáo dục Kytô giáo (Gravissimum Educationis), về liên lạc của Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kytô giáo (Nostra Aetate), về tự do Tôn giáo (Dingitatis Humanae).

Thí dụ: Trong tuyên ngôn Tự do tôn giáo, Công đồng xác nhận mọi người đều có nhân phẩm phải được tôn trọng, phải hưởng tự do, tự do tìm kiếm chân lý và Công đồng tuyên bố tôn giáo chân thật tồn tại trong Hội Thánh Công giáo và Tông truyền. Mọi người hành động theo lương tâm của mình kể cả trong lãnh vực tôn giáo.

II/ BỐ CỤC TÔNG HUẤN GAUDETE ET EXSULTATE

Văn kiện gồm 177 số, được phân phối trong năm chương:

  1. Tiếng gọi nên thánh(số 3-34).

  2. Hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện(số 35-62).

III. Dưới ánh sáng của Vị Tôn Sư (số 63-109).

  1. Vài đặc trưng/ Dấu chỉ của sự thánh thiện trong thế giới hiện nay(số 110-157).

  2. Chiến đấu, tỉnh thức, phân định(số 158-177).

Chương Một nhắc lại ơn gọi nên thánh dành cho tất cả mọi Kitô hữu (việc nên thánh không phải là đặc ân dành riêng cho một số ít người). Chương Hai tố giác hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện mang danh là “ngộ giáo” và “pelagiô”. Chương Ba trình bày con đường nên thánh qua việc thực hành các mối phúc thật. Chương Bốn kể ra năm đặc trưng của sự thánh thiện, và có thể coi như một áp dụng của chương Ba vào những hoàn cảnh thời nay. Trên thực tế, hai chương Ba và Bốn dài nhất, chiếm một nửa văn kiện, và là phần quan trọng nhất. Chương Năm đề cập đến ba thái độ cần có trong việc nên thánh.

SƠ LƯỢC CÁC CHƯƠNG:

Chương Một:  TIẾNG GỌI NÊN THÁNH

Công đồng Vaticanô II, trong chương Năm của Hiến chế tín lý về Hội thánh, đã đề cập đến “ơn gọi phổ quát nên thánh”.[2] Tông huấn tìm cách diễn tả ý tưởng ấy với những thuật ngữ tương đương : sự thánh thiện của “giới trung lưu” (theo nghĩa là : phổ thông, bình dân),[3] để đánh tan ý tưởng sai lầm cho rằng việc nên thánh chỉ dành riêng cho một thiểu số (giai cấp quý tộc); hoặc : sự thánh thiện của “người hàng xóm” (GE 7), để nhắn nhủ ta hãy nhận ra chân dung các thánh ở nơi những con người chúng ta gặp hằng ngày (chứ không chỉ nơi các thánh đội hào quang trên trời).[4] Các thánh là những con người bất toàn, vẫn còn mang nhiều khuyết điểm, nhưng họ tiếp tục tiến bước, tìm cách làm đẹp lòng Chúa (GE 3). Thực vậy, sự thánh thiện đạt đến cách tiệm tiến, chứ không phải cách chớp nhoáng, và trong tổng thể đời sống chứ không chỉ giới hạn vào danh mục của vài nhân đức (GE 23-24).

*Nên thánh là tiến trình dài chứ không phải là thời khắc.

  Nhiều trường hợp, phải nhiều thế kỷ trôi qua kể từ khi một người qua đời đến khi người đó được phong Thánh. Ngược lại, vài vị khác chỉ mất có vài năm, chẳng hạn như Mẹ Têrêsa Calcutta hay Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhưng hai vị này cũng chẳng so được với các trường hợp của Thánh Phêrô Vêrôna tử đạo, được phong thánh vào tháng 3/1253, chưa đầy 1 năm sau khi bị giết.

Một lưu ý không kém phần quan trọng là chúng ta nên thánh giữa lòng Dân thánh, tức là Giáo Hội : chúng ta không nên thánh cô đơn một mình (GE 6), tuy dù biết rằng có nhiều hình thức nên thánh, không ai giống ai, xét vì Chúa đã dành cho mỗi người một sứ mạng đặc thù (GE 11). Một hệ luận là chúng ta đừng vội xét đoán các cấp bậc cao thấp, tự coi mình hơn người khác, dựa theo một bậc thang do chính mình dựng lên.[5] Dù sao, chiều kích “cộng đồng” của việc nên thánh thúc đẩy chúng ta hãy ra khỏi bản ngã của mình, để gặp gỡ người khác, khuyến khích nâng đỡ nhau, nắm tay nhau trong cuộc lữ hành nên thánh (GE 87). Dĩ nhiên, chúng ta cũng được thôi thúc nhờ đoàn ngũ các chứng nhân, đoàn ngũ những kẻ vây quanh ta xét về không gian cũng như xét về thời gian (tức là những bậc cha ông trong đức tin, hiểu về cả hai phái nam và nữ).

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận tác động của Thánh Linh bên ngoài biên cương của Hội thánh (GE 9). Thật vậy, Thiên Chúa hiện diện khắp nơi : chúng ta cần cố gắng khám phá sự hiện diện của Ngài, thay vì hạn chế tác động của Ngài (x. GE 41).[6]

Chương bốn sẽ trở lại với các đặc trưng của sự thánh thiện vào thời nay.

Chương Hai :  HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN

Vừa rồi, chúng ta đã nghe tông huấn cảnh báo về một vài sự hiểu lầm liên quan đến con đường nên thánh. Bước sang chương Hai, văn kiện vạch mặt hai “kẻ thù” của sự thánh thiện. Hai nguy cơ này đã được Bộ Giáo lý Đức tin lưu ý hàng giám mục thế giới trong một bức thư đề ngày 22 tháng 2 vừa qua: đó là thuyết “tân ngộ giáo” (neo-gnosticismo) và “tân Pelagiô” (neo-pelagianismo).

Thực ra hai “lạc giáo” này đã được Đức Thánh Cha nói đến nhiều lần, ngay cả trước khi làm Giám mục Roma.[7] Văn kiện của Bộ Giáo lý Đức tin tìm cách giải thích nguồn gốc (khá phức tạp) của hai lạc giáo này vào thời các giáo phụ, và thú nhận rằng không thể móc nối trực tiếp với những lạc giáo thời nay.[8] Khi nói đến nguy cơ của “tân ngộ giáo” và “tân pelagio”, hai thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa rộng chứ không theo nghĩa chặt của lịch sử. Chúng tượng trưng cho hai sai lầm thường gặp trong việc sống đạo, trên bình diện nhận thức (ngộ đạo) và trong lãnh vực ý chí (Pelagio).

1, Thuyết ngộ đạo.[9] Thuật ngữ này có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Có thể hiểu như là thuyết chú trọng đến khía cạnh nhận thức trong tôn giáo: sự cứu độ hệ ở “ngộ” ra chân lý, chứ không cần đến giáo huấn bên ngoài. Trong lịch sử Kitô giáo, thuyết này cũng hiểu về chủ trương Nhị nguyên thuyết (tinh thần thì thánh thiện, còn vật chất thì xấu xa), khước từ mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể, bởi vì họ cho rằng cái linh thiêng không thể nào chung đụng với cái vật chất tội lỗi. Tông huấn GE hiểu về những người nghĩ rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ hiểu biết cao siêu. Từ đó, họ biến Kitô giáo thành một hệ thống tư tưởng, nhưng không quan tâm đến việc thực hành đức ái (GE 37; 41). Họ cũng xếp đặt các cấp độ thánh thiện dựa theo trình độ “ngộ” được chân lý, vì thế họ tự nghĩ rằng mình cao hơn những người khác, và có thẩm quyền phán đoán người khác. Thế nhưng họ lại thường quên những yêu sách của đức ái, những đòi hỏi phải phục vụ “thân xác” của Đức Kitô là những người nghèo đói cùng khổ (GE 37; 108).

  1. Thuyết Pelagiô. Pelagio là tên của một đan sĩ sống vào thế kỷ V (360-420). Vào một thời kỳ phong hóa suy đồi, ông kêu gọi cố gắng chấn hưng kỷ luật qua các việc tu đức khổ chế. Tiếc rằng vì nhấn mạnh quá đáng đến nỗ lực của con người, ông giảm nhẹ vai trò của ân sủng, khiến cho thánh Augustinô phản ứng quyết liệt.

Tông huấn đặt tên Pelagio cho thái độ nhấn mạnh đến nỗ lực cá nhân, đến nỗi hầu như sự thánh thiện là kết quả của ý chí chứ không phải là ân sủng. Thế nhưng, sự thánh thiện là tác động của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta cũng như là sự hợp tác với Thánh Linh.

Một cách cụ thể, đó là thái độ bám víu vào luật lệ, bị ám ảnh bởi những thành công thắng lợi về chính trị xã hội, chú trọng đến sự hoành tráng bên ngoài, phô trương những hoạt động (GE 57). Họ muốn chất đầy đời sống đạo với những quy tắc luật lệ, quên đi nét đơn giản hấp dẫn của nó (GE 58). Thánh Tôma Aquinô đã lưu ý các nhà lãnh đạo Giáo hội đừng đặt ra quá nhiều mệnh lệnh khiến cho đời sống tín hữu ra nặng nề (GE 59).[10]

Ngoài ra, còn có “thuyết tương đối” (đồng hóa Chân lý trong mọi tôn giáo) / Thuyết Tục hóa/

Chương Ba :  DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THẦY/ Rápbi

Đây là trọng tâm của tông huấn, chỉ dẫn lộ trình nên thánh. Có lẽ vì muốn đặt ở “trọng tâm” cho nên tác giả xếp vào chương Ba (nghĩa là nằm ở giữa một bản văn gồm năm chương), đang khi có lẽ nên đặt ngay từ chương Hai.

Đâu là con đường nên thánh? Câu trả lời :  nơi tám mối phúc thật (GE 63). “Phúc” (hạnh phúc) và “Thánh” đồng nghĩa với nhau, bởi vì diễn tả con người đã đạt tới hạnh phúc vì đã trung thành với Thiên Chúa, hiến thân phụng sự Chúa (GE 64). Con đường NGHỊCH LÝ TIN MỪNG

Thiết tưởng nên nhắc lại điều nhận xét của các giáo phụ ‒được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo lấy lại ở các số 1716-1717), đó là: các mối phúc thật không chỉ là tóm lược các lời giảng của Thầy Giesu nhưng nhất là chúng phác họa dung mạo của Chúa Giêsu. Nói khác đi, việc nên thánh không chỉ là tuân giữ lời dạy của Thầy Giêsu nhưng còn là chiêm ngắm và kết hợp với Người. Nói ngược lại cũng đúng: nếu ai muốn đi theo Thầy Giêsu thì hãy thực hành chương trình sống mà Người đã vạch ra, chứ đừng nên chỉ nhìn ngắm rồi bỏ đó (GE 97). Mặt khác, chúng ta cũng đừng quên những lời nhắn nhủ vừa nói ở chương trước: đường nên thánh không phải là ngọn núi mà ta gắng sức leo trèo; cần đến ân sủng của Chúa nữa. Đức Kitô không chỉ là một Thầy dạy (hoặc nhà lập luật), nhưng còn là Đấng dẫn ta đi bằng ân sủng.

Trong chương này, Đức Thánh Cha giải thích từng mối phúc và áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể,[11] dưới lăng kính của truyền thống tâm linh Kitô giáo (GE 69-94). Bản văn chính là Mt 5,3-12, nhưng cũng được đối chiếu với Lc 6,20-23.

1) Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Nghèo khó trong tinh thần không chỉ được hiểu về thái độ đối với tài sản vật chất, mà còn là thái độ tự do về tinh thần, “dửng dưng” đối với mọi tình huống xảy ra (theo thánh Inhaxio: “santa indifferenza” (GE 69). Nghèo khó cũng có nghĩa là chấp nhận một lối sống khắc khổ đạm bạc.

2) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.

Hiền lành là bình thản chấp nhận những khuyết điểm của tha nhân. Cần giữ thái độ hiền lành ngay cả khi phải cương quyết bảo vệ đức tin và chân lý. Tiếc thay, trong quá khứ, nhiều lần Giáo Hội đã quên lời dạy của Thầy về đức hiền lành và khiêm tốn (Mt 11,29). (GE 73)

3) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Chân phúc này được liên kết với ơn nước mắt, đặc biệt khi chia sẻ những thống khổ của tha nhân.

4) Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.

Công chính có nghĩa là trung thành với ý Chúa. Công chính cũng được hiểu là công lý (hoặc công bình) mà ta khao khát thực hiện cho những người yếu kém. Tiếc rằng chúng ta thường trở thành đồng lõa với bất công khi bị lôi cuốn vào nạn tham nhũng (GE 78).

5) Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Chúng ta biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc trao ban và tha thứ

6) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Trái tim trong sạch khi yêu mến Chúa và tha nhân thật tình, chứ không chỉ bằng môi mép.

7) Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Xây dựng hòa bình kể cả bằng lời nói, ít là không nói xấu người khác.

8) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.

“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao” (Mt 5,3-12). Bị bách hại vì sống công chính có nghĩa là sống theo lý tưởng, chứ không lê thê kéo dài cuộc đời tầm thường. Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta là không dễ gì sống tám mối phúc, bởi vì không chỉ vì những yêu sách của nó trái ngược với tính ươn lười của ta, nhưng bởi vì khung cảnh xã hội hiện nay hầu như đi ngược với tinh thần ấy.

Đường nên thánh Kitô giáo cũng cần liên kết với chương 25 của Tin mừng thánh Matthêu (câu 31-46), kêu gọi cứu giúp những người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nơi nương tựa, thiếu tự do (GE 95-109). Vào thời nay, đó là những người di dân, những người bị gạt bỏ, những hình thức nô lệ mới, vv. Việc thờ phượng Chúa không thể nào tách rời khỏi các công việc bày tỏ lòng thương xót.

Có lẽ không phải là thừa khi nhắc lại rằng những lời kết thúc “tuyên ngôn bát phúc” đã được dùng làm lời mở đầu cho tông huấn: “Anh em hãy vui mừng và hớn hở” (Gaudete et exultate).

Chương Bốn :VÀI ĐẶC TRƯNG CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI HIỆN NAY

Trong chương này, Đức Thánh Cha trình bày vài đặc tính của sự thánh thiện trong thế giới hiện nay, và ngài liệt kê “năm cách diễn tả tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân” được xem là quan trọng xét trong những nguy cơ và giới hạn của văn hóa ngày nay (GE 111). Thật vậy, văn hóa thời đại tỏ ra náo động và bạo hành; tiêu cực và buồn bã; lãnh đạm ích kỷ; cá nhân chủ nghĩa; đạo đức giả. Vì thế việc nên thánh cần phải đáp trả lại các thách đố ấy.

1) Đặc trưng thứ nhất là kiên nhẫn, bền chí và hiền lành. Cần phải chống lại những bản năng hung hăng và kiêu căng (GE 114). Tính bạo động cũng có thể diễn ra qua những lời lẽ công kích trên các phương tiện truyền thông (GE 115). Khiêm tốn là một đặc tính của thánh nhân, con người có trái tim đã được Chúa Kitô giao hòa, giải thoát khỏi bản tính hung hãn là biểu hiện của một bản ngã tự cao tự đại. Khiêm tốn có thể là chịu đựng những sự sỉ nhục, có thể là không khoe khoang nhưng biết nhún nhường ca ngợi điều hay của tha nhân (GE 119). Phần nào đặc trưng này khai triển chân phúc dành cho kẻ hiền lành và xây dựng hòa bình nói ở chương trước.

2) Đặc trưng thứ hai là vui tươi và tính khôi hài. Sự thánh thiện không đồng nghĩa với buồn rầu, hay một bộ mặt ủ rũ (GE 122). Người khó tính không phải là dấu hiệu của sự thánh hiện. Trái lại, thánh nhân là người biết sống vui tươi, và tính khôi hài, nhờ vậy mà họ khích lệ tha nhân với niềm hy vọng (GE 122). Chúa muốn cho ta sống tích cực, với lòng biết ơn, và không cầu kỳ (GE 127). Điều này không làm chúng ta quên đi chân phúc dành cho người sầu khổ kèm theo ơn nước mắt, đã nói trong chương trước.

3) Đặc trưng thứ ba là can đảm và hăng say. Việc nhìn nhận mình mỏng dòn yếu ớt không có phép ta nhút nhát rụt rè. Sự thánh thiện vượt thắng những sợ hãi và tính toán, những mưu toan tìm kiếm chỗ an toàn [tựa như truyền thống, luật lệ] (GE 134). Thánh nhân không phải là người quan liêu công chức, nhưng là một người say mê, không an phận với lối sống tầm thường (GE 138). Thánh nhân là kẻ sẵn sàng đón chờ những bất ngờ từ Thiên Chúa, là Đấng thúc đẩy ta ra đi xa hơn chỗ quen thuộc, ra đến những vùng ngoại ô và biên cương (GE 135).

4) Đặc tính thứ bốn là cùng đi với cộng đoàn. Hơn thế nữa, đôi khi Giáo hội tuyên phong cả một cộng đoàn vì đã sống Tin mừng cách anh dũng và đã dâng hiến mạng sống của các thành viên cho Thiên Chúa (GE 141), sẵn sàng cùng chịu chết vì đạo, như trường hợp các chân phước tử đạo dòng Trappiste ở Tibhirine (Algerie). Đời sống cộng đoàn bảo vệ chúng ta khỏi khuynh hướng của chủ nghĩa cá nhân, tiêu thụ, đang dẫn đưa con người đến chỗ tìm kiếm an lạc cho mình chứ chẳng quan tâm đến tha nhân (GE 146).

5) Đặc tính thứ năm là cầu nguyện liên lỉ. Thánh nhân cần phải thông thương với Thiên Chúa. Thánh nhân không thể chịu để cho mình bị ngột ngạt trong thế giới khép kín. Giữa những gian truân, thử thách và nỗ lực, họ hướng lên Chúa, than thở và chúc tụng và chiêm ngưỡng Người (GE 147). Đức thánh cha nói thêm: “Tôi không tin có thể nên thánh mà không cầu nguyện, tuy không hẳn là những khoảng thời gian lâu dài với những tâm tình sâu đậm”. Mặt khác, đừng nghĩ rằng cầu nguyện là chú tâm nhìn ngắm Thiên Chúa, không cần nghĩ đến tha nhân nữa (GE 154). Không phải thế, việc chuyển cầu cho tha nhân là điều đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng luôn gắn bó với lịch sử đời ta. Thiên Chúa là Đấng tác động trong thế giới, và đưa thế giới về với Người.

Trong chương kế tiếp, khi đề cập đến sự phân định (GE 171-173), tông huấn sẽ còn trở lại với sự cần thiết của cầu nguyện, thinh lặng, lắng nghe.

Chương Năm :   CHIẾN ĐẤU, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH

Người đọc có thể mong đợi rằng chương cuối cùng sẽ đề cập các “phương tiện nên thánh” cổ điển (chẳng hạn như: Lời Chúa, Thánh Thể, các việc đạo đức, lòng tôn kính các thánh, khổ chế, vv), nhưng Đức Thánh Cha lại chọn lối tiếp cận khác, tuy cũng nói đến các phương thế nên thánh. Chương này được mở đầu bằng những lời như sau: “Đời sống Kitô hữu là một chuộc chiến đấu trường kỳ. Cần sức mạnh và can đảm để kháng cự những cám dỗ của ma quỷ và loan báo Tin mừng. Cuộc chiến đấu này cao đẹp bởi vì nó cho phép chúng ta cử hành mỗi lần Thiên Chúa chiến thắng trong cuộc đời của ta” (GE 158).

1) Đường nên thánh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ai? Phải chăng là chiến đấu với não trạng thế gian, dụ dỗ chúng ta hãy an phận? Phải chăng là chiến đấu với sự mỏng dòn của bản tính con người (tượng trưng qua các nết xấu: lời biếng, ghen tương, dâm ô, vv)? Đúng vậy, nhưng hơn thế nữa, bởi vì còn phải chiến đấu với ma quỷ là thủ lãnh của sự dữ (GE 159). Tông huấn đã dành các số 160 đến 165 để bàn đến “nhân vật” này, mà nhiều người cho là huyền thoại, sản phẩm của óc tưởng tượng!

2) Đường nên thánh đòi hỏi phải tỉnh thức, cầm đèn sáng trên tay, bởi vì những kẻ không phạm tội trái nghịch với luật Chúa vẫn có nguy cơ ngủ mê, đến nỗi đâm ra mù quáng, không còn biết phân biệt đâu là phải đâu là trái (GE 164).

3) Ơn phân định giúp cho ta trong cuộc chiến đấu này, để biết điều gì bắt nguồn từ Thánh Linh và điều gì bắt nguồn từ tinh thần thế gian và tinh thần ma quỷ (GE 166). Đây là một chủ đề rất được quan tâm trong linh đạo thánh Inhaxiô. Phân định là khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh thường nhật, để biết chú ý đến tiếng Chúa kể cả qua những việc nhỏ nhặt (GE 165-175). Trong chương bốn, ba số 143-145 đã được dành để nói đến việc nhận ra ý Chúa trong những chi tiết “vụn vặt”.

Tông huấn kết thúc với lời ước nguyện dâng lên Mẹ Maria, Đấng Toàn thánh nhưng cũng là người mẹ nhân ái, âu yếm đón nhận tất cả mọi con cái chứ không xét đoán. Khi tới gần Mẹ, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ (GE 176)

CÂU HỎI:

1/ Bạn hãy cho biết:  Chiến đấu cái gì? Tỉnh thức điều gì ? Và phân định như thế nào? Cái nào quan trọng nhất theo bạn?

Kết luận

Có chi mới trong văn kiện này?

– Đây không là một khảo luận thần học về sự thánh thiện, nhưng chỉ muốn nhắc nhở các tín hữu về ơn gọi nên thánh trong thời đại hôm nay, qua việc vạch ra những thách đố, những khó khăn.

– Đây là những lời khuyên của một vị mục tử chứ không phải là những biện luận của một giáo sư. Tác giả cho thấy những “kẻ thù” của sự thánh thiện không hẳn là những kẻ tội lỗi nhưng là những người an phận với nếp sống tầm thường, nhất là những người lầm tưởng rằng mình đã nên thánh, song thực sự còn xa với lý tưởng Tin mừng. Họ nghĩ rằng việc nên thánh hệ tại việc đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng các mầu nhiệm cao siêu nhưng lại bỏ qua việc chăm sóc người nghèo !

– Tông huấn có thể xem như một bài tóm tắt của những giáo huấn nhân kỷ niệm 5 năm giữ vai trò “chủ chăn” trong Giáo hội, một chủ chăn đã thấm mùi của các con chiên.

Xin thêm hai nhận xét ngắn ngủi để khép lại bài này.

1) Thánh Linh được nhắc tới 24 lần trong văn kiện, tuy không được đề cập một cách hệ thống. Thật ra Thánh Linh mới thực sự là chủ động của đường nên thánh của các Kitô hữu nói chung cũng như của mỗi người tín hữu nói riêng (GE 19; 23). Nếu không có Ngài, chúng ta không thể sống nổi các mối phúc thật (GE 65). Thậm chí, chính Thánh Linh là Đấng gợi lên lòng khao khát nên thánh (GE 177, nghĩa là câu cuối cùng của tông huấn).

2) “Niềm vui” là một tư tưởng rất được Đức thánh cha Phanxicô ưa thích. Niềm vui là một đặc trưng của sự thánh thiện Kitô giáo (GE số 122-128), và được vào tựa đề của các tông huấn (Evangelii gaudium (NVTM), Amoris Laetitia (NVYT), Gaudete et exultate).[14] Thực ra trước đây, các vị tiền nhiệm cũng không quên đề tài ấy, chẳng hạn như tông huấn Gaudete in Domino của chân phước Phaolô VI (9/5/1974), và trước đó, thánh Gioan XXIII đã khai mạc công đồng Vaticano II với bài diễn từ Gaudet mater Ecclesia. Vị thánh buồn là vị thánh đáng buồn

Nếu khẳng định rằng vui tươi là đặc trưng của sự thánh thiện, thì lật ngược lại mệnh đề cũng không sai: vui tươi cũng là một phương tiện để nên thánh. Vì thế là lạc đề khi tông huấn trưng dẫn lời cầu xin ơn khôi hài của th.Thomas More (chú thích 101): Lạy Chúa, xin cho con được ăn ngon, và đồng thời xin cho con kiếm được cái gì nhét vào bao tử. Xin cho con được sức khoẻ thể xác, và cho con sự vui tính để mà gìn giữ sức khoẻ. Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn lành thánh, biết thu lượm hết những gì tốt lành trong sạch, để lỡ khi gặp tội lỗi thì không hoảng sợ nhưng mà biết cách sửa chữa.

Xin cho con một tâm hồn không hề biết tới chán nản, lẩm bẩm, rên rỉ, thở dài; xin cho con đừng quá bận tâm đến cái thằng chuyên phá rối, nó tên là thằng TÔI. Lạy Chúa, xin cho con được chút ít khôi hài; xin cho con ơn biết tiếp nhận chuyện bông đùa diễu cợt, để con có thể thấy được tí chút vui vẻ trên đời, và giúp cho người khác cũng được thông dự vào. Amen.

 (catechesis.net)  Văn Kiện  Đức Giáo Hoàng  Tông Huấn, viết ngày Thứ bảy, 21 Tháng 4 2018

                                                                                  Phan Tấn Thành

 

[1] Antonio Spadaro S.J., “GAUDETE ET EXSULTATE. Radici, struttura e significato della Esortazione apostolica di papa Francesco”, in : La Civiltà Cattolica, n.3907 (15/4/2018) https://www.lacivilta cattolica.it/articolo/gaudete-et-exsultate/, Tác giả là tổng biên tập của bán nguyệt san Civiltà Cattolica, và đã nghiên cứu nhiều bài phát biểu của đức đương kim giáo hoàng cũng như đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với ngài.

[2] Vào thời cận đại, tác giả cổ võ sự thánh thiện mở rộng cho tất cả mọi thành phần Dân Chúa là thánh Phanxico de Sales (1567-1623). Tư tưởng của ngài được tóm lại trong bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 24 tháng 1.

[3] Một thuật ngữ của Joseph Malègue, một văn hào người Pháp (1876-1940), tác giả quyển sách tựa đề: Pierres noires. Les classes moyennes du Salut, Paris 1958, được trích ở chú thích số 4).

[4] Dĩ nhiên, không ai dám phủ nhận vai trò của các vị thánh đã được đặt lên bàn thờ (x. GE 5). Tông thư đã nhắc đặc biệt các thánh nữ (GE 12).

[5] x. GE 43. Điều này đã được nói đến nhiều lần trong tông huấn Amoris Laetitia, chẳng hạn như ở các số 112; 177; 261; 265; 300; 302; 310 .

[6] Theo cha A. Spadaro, đây là linh đạo của thánh Inhaxio: Cf. Ejercicios espirituales, 230-237; Autobiografía, 99; Constituciones de la Compañía de Jesús, 288.

[7] Văn kiện Placuit Deo (ở chú dẫn số 4) chỉ trích dẫn thông điệp Lumen fidei (29/6/2013), số 47: AAS 105 (2013), 586-587; tông huấn Evangelii gaudium, số 93-94: AAS (2013), 1059; Diễn từ cho các đại biểu Đại hội lần thứ năm của Giáo hội Italia họp tại Firenze (10/11/2015): AAS 107 (2015), 1287. Thực ra, khi còn làm tổng giám mục ở Buenos Aires, Hồng y J.M. Bergoglio đã nhắc đến hai lạc thuyết này trong bài giảng khai mạc phiên họp Hội đồng giám mục Argentina ngày 11/5/2009 cũng như trong bài giảng ngày 7/11/2011. X. Marcello Semeraro, Le “eresie” pastorali secondo Evangelii gaudium” (Bá cáo cho Đại hội giáo phận Palermo, ngày 30/9/2016), “il Regno-Documenti” 7/2017, 246-256.

[8] x. Placuit Deo số 3.

[9] Đối với những người không chuyên môn, “ngộ đạo” có thể hiểu lầm với “ngộ độc”. Đàng khác, “ngộ” cũng thế hiểu là “nhầm lẫn”, như khi nói “ngộ nhận” (vì thế “bất khả ngộ” là không thể sai lầm). Ở đây “ngộ” là “hiểu”, như khi nói “giác ngộ, tỉnh ngộ”.

[10] x. Summa Theologiae, I-II, q.107, a.4. Điều này đã được nêu bật trong tông huấn Evangelii gaudium số 43.

[11] Trước đây, phương pháp cũng đã được áp dụng trong tông huấn Amoris Laetitia (số 90-119)khi chú giải 13 đặc tính của tình yêu (1Cr 13,4-7).

[12] Chúng tôi không muốn điểm qua tất cả các tác phẩm được trích dẫn trong văn kiện này. Chỉ nên ghi nhận là bên cạnh các tác giả cổ điển (tiến sĩ Hội thánh như Augustinô, Tôma Aquino, Bonaventura, Têresa Hài đồng Giêsu), và vài tác giả cận đại. Hồng y Nguyễn Văn Thuận (Năm chiếc bánh và hai con cá), được trích dẫn ở GE 17 đã quá quen thuộc với độc giả người Việt, nhưng có lẽ xa lạ với người nước ngoài. Đối lại, tên tuổi Leon Bloy thì được biết đến; ông là một văn hào người Pháp (1846-1917) được trích dẫn ở GE 34 : “Trên đời này, chỉ có một điều đáng buồn … đó là không làm thánh”.

[13] Số 20 (suy gẫm các mầu nhiệm Chúa Kito) và chú thích số 18 (Linh thao 102-312); số 69 (santa indifferenza) và chú thích số 68; số 153 về sự nhớ lại ơn Chúa, với chú thích số 116. Sau cùng một châm ngôn khắc trên mộ của thánh nhân được ghi lại nơi chú thích số 124 (“Non coerceri a maximo contineri tamen a minimo divinum est”: tuy không để cho mình bị ngăn chặn không vươn lên đến tối ưu, thế mà vẫn chú trọng vào điều nhỏ nhặt cụ thể trước mắt; ấy là thần linh vậy).

[14] Cha Spadaro cũng cho biết thêm là trong Văn kiện của Đại Hội các giám mục châu Mỹ Latinh họp ở Aparecida năm 2007 (trong đó Hồng y Bergoglio giữ vai trò chủ chốt), từ ngữ “niềm vui” xuất hiện gần 70 lần.

III/ NHỮNG ĐIỂM MẤU CHỐT CỦA TÔNG HUẤN

NĂM BÀI HỌC TIÊU BIỂU RÚT RA TỪ TÔNG HUẤN “GAUDETE ET EXSULTATE”:

  1. Sự thánh thiện nghĩa là trở nên chính mình

ĐTC Phanxicô đưa ra nhiều ví dụ về đời sống thánh thiện xuyên suốt tài liệu này: Thánh Têrêsa thành Lisieux, một tín hữu Công giáo người Pháp đã nhận ra sự thánh thiện trong các công việc nhỏ bé; Thánh Inhaxiô thành Loyola, đấng sáng lập Dòng Tên đã tìm thấy Chúa trong mọi sự; Thánh Philip Neri, đấng sáng lập dòng Oratorian, đã trở nên nổi tiếng vì tính hài hước của mình.

Các thánh cầu bầu cho chúng ta và họ trở nên những mẫu gương về cách sống thánh thiện. Thế nhưng, điều này không có nghĩa chúng ta phải trở thành những phiên bản sao chép của các ngài. Chúng ta được chờ đợi để trở nên chính mình, và mỗi tín hữu được mời gọi “phân định con đường của riêng mỗi người” và từ đó “mang lại những điều tốt đẹp nhất cho bản thân.” Như Thomas Merton có nói: “Với tôi, là một thánh nhân cũng có nghĩa là trở nên chính mình.”

  1. Đời sống thường nhật có thể dẫn đến sự thánh thiện

Bạn không cần phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ mới có thể trở nên thánh thiện. Hết thảy mọi người đều được mời gọi làm thánh, như Công Đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta – một người mẹ, một người cha, một học sinh hay một luật sư, một giáo viên hay một người quản gia. Đức Phanxicô gọi họ là “những vị thánh ngay bên ta”. Tất cả những gì chúng ta cần làm là “sống cuộc đời mình trong tình yêu” và “làm chứng” cho Thiên Chúa trong tất cả những gì mình làm.

Điều đó không có nghĩa là những hành động phải lớn lao và kịch tính. Đức Phanxicô đưa ra những ví dụ về sự thánh thiện hàng ngày, ví dụ như một người cha yêu thương nuôi nấng một đứa trẻ, cả “những cử chỉ nhỏ” và những hy sinh mà một người có thể làm, như quyết tâm không ngồi lê đôi mách. Nếu bạn có thể nhận ra cuộc sống của mình là một “sứ mạng”, bạn sẽ sớm nhận thấy rằng một cách đơn giản bạn có thể trở nên biết yêu thương và tử tế để tiến tới sự thánh thiện.

Bạn cũng không cần phải “ngây ngất trong trạng thái xuất thần” hay đi bộ loanh quanh với “đôi mắt nhìn xuống” để trở nên một vị thánh. Bạn cũng không cần phải giấu mình khỏi đám đông. Ngược lại, bạn không muốn bị cuốn vào một cuộc chạy đua, đuổi bắt hết điều này đến điều khác. Điều thiết yếu là tạo cho mình sự cân bằng giữa hoạt động và chiêm niệm.

  1. Có hai khuynh hướng cần tránh: Thuyết ngộ giáo (Gnosticism) và thuyết Pelage (Pelagianism) = Satan rất xảo quyệt…!

Có thể ĐTC Phanxicô đã kéo người ta vào cuộc tra cứu từ điển hay các sách giáo khoa về thần học khi yêu cầu chúng ta tránh hai mối nguy trong đời sống thiêng liêng.

Đầu tiên là thuyết ngộ giáo, tiếng Hy Lạp gnosis có nghĩa là ‘biết’. Thuyết ngộ giáo là lạc giáo xưa cũ vốn cho rằng điều quan trọng nhất là điều bạn biết. Thế nên, chẳng cần phải bác ái hay làm việc tốt. Tất cả những gì bạn cần là tiếp cận tri thức đúng đắn. Ngày nay thuyết ngộ giáo lôi kéo mọi người nghĩ rằng họ có thể “hiểu rõ hoàn toàn” đức tin, và rồi thúc ép người khác cùng suy nghĩ như họ. “Khi ai đó có một câu trả lời cho mọi câu hỏi, đó là dấu hiệu cho thấy họ không đi đúng đường,” ĐTC nói. Nói cách khác, việc biết-tuốt-tuồn-tuột sẽ không cứu bạn.

*Kiêu ngạo – cây biết lành biết dữ – Sa ngã.

Khuynh hướng thứ hai cần tránh là thuyết Pelage, được đặt tên theo Pelagius, nhà thần học thế kỷ V liên quan đến ý tưởng này. Thuyết Pelage cho rằng chúng ta có thể tự cứu độ nhờ những nỗ lực của bản thân. Người theo thuyết này tin vào năng lực của họ, không cảm thấy cần ân sủng của Thiên Chúa, và họ hành xử tốt hơn người khác bởi vì họ tuân thủ các quy tắc nhất định.

Những người theo thuyết Pelage ngày nay thường có “một nỗi ám ảnh với luật lệ, sự say mê với các lợi ích xã hội và chính trị, sự quan tâm thận trọng đối với phụng vụ, giáo lý và uy thế của Giáo Hội.” Đó là mối nguy hiểm thực sự đối với sự thánh thiện bởi vì nó cướp khỏi chúng ta lòng khiêm tốn, đặt chúng ta trên người khác, và chỉ chừa một khoảng nhỏ cho ân sủng mà thôi.

  1. Hãy tử tế

“Hãy Vui Mừng và Hân Hoan” chứa đựng nhiều lời khuyên thiết thực của ĐTC Phanxicô để có thể sống một cuộc sống thánh thiện. Ví dụ, đừng ngồi lê đôi mách, hãy ngừng phán xét và quan trọng nhất là đừng trở nên tàn nhẫn.

Điều đó cũng áp dụng cho những hoạt động trên mạng. Những nhận xét của Đức Phanxicô về chủ đề này thật đáng nhớ. Ngài viết rằng: “Phỉ báng và vu khống có thể trở nên tầm thường… vì những điều có thể được nói ở đó (trên mạng – người dịch) là những điều không được chấp nhận trong đàm thoại công khai, khi người ta tìm cách bù trừ sự bất mãn của họ bằng cách bôi nhọ người khác … Trong khi tuyên bố tuân giữ các giới răn khác, họ hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, vốn cấm việc làm chứng dối hay nói dối và lăng mạ người khác cách tàn nhẫn.”

Để nên thánh thiện, hãy trở nên tử tế.

  1. Các Mối Phúc cung cấp một lộ trình đưa đến sự thánh thiện

Danh mục “phúc cho anh em” Chúa Giêsu đưa ra, Bát Phúc, là trọng tâm của tông huấn này. Các mối Phúc không chỉ là những gì Chúa Giêsu dung để chỉ đến sự thánh thiện, chúng cũng là chân dung của chính Ngài. Vì vậy, chúng ta được mời gọi trở nên nghèo trong tinh thần, hiền lành, người xây dựng hòa bình, đói khát sự công chính, v.v…

Nhưng hãy tập trung vào một mối phúc: “Phúc cho ai xót thương người.” ĐTC Phanxicô nói rằng lòng thương xót, một trong những chủ đề trung tâm trong sứ vụ giáo hoàng của ngài, mang hai chiều kích: không chỉ giúp đỡ và phục vụ người khác nhưng cũng tha thứ và hiểu biết họ. Chúa Giêsu không nói: “Phúc cho những kẻ âm mưu trả thù!”

Vậy đâu là bản tóm lược tổng quan của ĐTC Phanxicô về sự thánh thiện? Bản tóm ấy dựa trên các mối Phúc: “Nhìn xem và hành động với lòng thương xót.”

Fr. James Martin, S.J.  Minh Vương, S.J. chuyển ngữ
Nguồn::https://www.americamagazine.org/faith/2018/04/09/top-five-takeaways-gaudete-et-exsultate

CÂU HỎI THẢO LUẬN:

1/ Hãy đọc chương 3 và rút thêm 1 hay 2 điểm mấu chốt ngoài 5 điểm trên.
2/ Có thể liệt kê thêm những quan niệm bị coi là: “lạc thuyết” ?

IV/ NHỮNG CÁI NHÌN KHÁC NHAU (PHẢN DIỆN) VỀ TÔNG HUẤN:

Đức Hồng Daniel DiNardo, Giám mục Giáo phận Galveston-Houston, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, và Đức Hồng Y Gerhard Müller, Nguyên Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, khen ngợi văn kiện về sự thánh thiện, nhưng nó cũng gợi lên những ý kiến trái chiều liên quan đến nội dung về tính thánh thiêng của sự sống và những lạc thuyết.

Tác giả: Edward Pentin / Dịch giả: Fx. Nguyễn Văn Thượng

Tông huấn “Gaudete et Exultate” văn kiện mới của Đức Giáo hoàng Phanxicô, được ca ngợi nhiều bởi Tông huấn chỉ dẫn những nẻo đường tiến tới sự thánh thiện, nhưng cũng bị phê bình là kết hợp nhầm lẫn tính luân lý nghiêm trọng của việc bảo vệ sự sống thai nhi với những vấn đề khác, và tạo ra những tấn công vô lý đối với những người phê bình Đức Giáo Hoàng.

Đức Giáo Hoàng nói rằng “mục tiêu khiêm tốn” của ngài đối với văn kiện này là “một lần nữa đề xuất lời mời gọi vươn tới sự thánh thiện một cách thiết thực cho thời đại của chúng ta, nơi đầy dẫy những nguy cơ, thách thức và cả những cơ hội. Chúa đã chọn mỗi người chúng ta “để nên thánh và không có gì đáng trách trước mặt Ngài trong tình yêu””.

Ngày 11 tháng 4 vừa qua, Đức Hồng y Daniel DiNardo, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đã trao đổi với trang Register: “Tông huấn này mời gọi chúng ta dấn bước vào hành trình hướng tới sự biến đổi trọn vẹn nơi bản thể của chúng ta: đó là nên thánh”. “Nếu chúng ta dành thời gian cầu nguyện với những suy tư thật đẹp của Tông huấn dựa trên Tin Mừng và những lời khuyên mang tính thực tiễn của nó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nó sẽ sinh hoa trái dồi dào nuôi dưỡng chúng ta trên tiến trình hướng tới sự thánh thiện”.

Giáo sư Joseph Seifert, Chủ tịch Học viện Gioan Phaolo II về Sự sống Con Người và Gia đình (học viện mới được thành lập), nói về Tông huấn “Gaudete et Exsultate”: “Cho đến nay, đây là văn kiện tuyệt hảo nhất của triều giáo hoàng đương nhiệm”, văn kiện mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô “nhấn mạnh tuyệt đối vào yếu tố trọng tâm của chân lý mạc khải: lời kêu gọi nên thánh”.

Vị giáo sư này cũng tin rằng Tông huấn “hoàn toàn không tương thích” với những phát biểu gần đây của một số học giả Công giáo, bài xích những yếu tố trong thông điệp Humanae Vitae và Veritatis Splendor.

Có hai khía cạnh trong văn kiện đã gây tranh cãi và được dư luận quan tâm:

1) một đoạn văn được vài người diễn giải như “cào bằng” lập trường luân lý về việc bảo vệ sự sống của các thai nhi với những biện pháp bảo vệ người nghèo, người nhập cư, và những người bị gạt ra bên lề xã hội; 2) một đoạn mà trong đó dường như Đức Thánh Cha trách phạt những người đang cố gắng gìn giữ giáo lý và kỷ cương Hội Thánh mà không quan tâm đến điều ngài nói là loan truyền “nét đẹp và niềm vui của Tin Mừng, và tìm kiếm những kẻ lạc lối”.

Tính Thánh Thiêng của Sự Sống

Liên quan đến khía cạnh thứ nhất, ĐTC nói rằng việc bảo vệ “thai nhi vô tội cần thực hiện rõ ràng, kiên định và nhiệt thành“,.. “sự sống của những người khốn khổ (đã chào đời), những người túng quẫn, người bị bỏ rơi, người thấp cổ bé miệng, người cô thân cô thế, và người già nua bệnh tật đối diện phương thức trợ tử áp đặt, nạn nhân của bọn buôn người, những hình thức nô lệ mới, và hết mọi hình thức bị chối bỏ” cũng thánh thiêng ngang nhau.

Tiếp đến, ĐTC phê phán một số người Công giáo thường coi tình trạng người di cư là “vấn đề thứ yếu” so với tầm quan trọng của “những vấn đề đạo đức sinh học”, và ngài trích dẫn Thánh Kinh để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hành vi tiếp đón khách ngoại kiều.

Đức Hồng Y DiNardo, Tổng giám mục Galveston-Houston, nói rằng sự sống “không bao giờ dễ bị tổn thương hơn là lúc còn trong dạ mẹ”, nhưng cũng có nghĩa là “trong suốt cuộc đời, chúng ta vẫn cần đến sự trợ giúp của anh chị em mình”. Ngài thêm rằng ĐTC Phanxicô “tha thiết nhắc nhở chúng ta về chân lý này” và rằng “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta can đảm phục vụ sự sống trong từng giai đoạn”.

Nhưng một số nhóm phò sinh đã chỉ trích những phát ngôn của ĐTC. Chẳng hạn, Susan B. Anthony List cho rằng: Mặc dù Đức Giáo Hoàng có vẻ khẳng định tội ác tự thân của việc phá thai, nhưng vẫn “không thể nào” cào bằng phá thai với bất kỳ vấn đề công bằng xã hội khác, và vì thế đoạn này của Tông huấn “xoá mờ ranh giới và gây nhầm lẫn”.

Trao đổi với trang Register,  Đức Hồng y Gerhard Müller nói Đức Giáo Hoàng “nhấn mạnh rõ ràng” trong văn kiện quyền được sống, vô điều kiện, từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên, vì vậy đương nhiên là không đúng khi xếp Đức Phanxicô vào loại “tư tưởng gia chống văn hoá sự sống” và coi ngài như vị giáo hoàng phóng khoáng.

Nhưng khi trích dẫn sắc lệnh về đại kết, Unitatis Redintegratio, của Công đồng Vatican II, vị Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin cũng nhấn mạnh rằng “chúng ta không được quên yếu tố phẩm trật của chân lý đức tin và luân lý”. Ngài nói rằng quyền sống là quyền cơ bản; các quyền khác của con người phục vụ cho quyền sống này, và chúng (quyền sống và các quyền khác) không loại trừ lẫn nhau.

Giáo sư Claudio Pierantoni, một học giả về Giáo phụ và Triết học trung cổ thuộc Học viện Universidad tại Chile nói mặc dù dường như “không có lỗi về mặt suy tư thần học” trong ngôn từ của Đức Giáo Hoàng, nhưng phá thai là một “hành động gian ác tự thân, bị kết án nặng nề” theo luật, trong khi đó những vấn nạn như tình trạng nhập cư chỉ là những vấn đề cần “suy xét thận trọng”.

Quan điểm của ông được chia sẻ bởi giáo sư Roberto De Mattei, một chuyên viên giáo sử và là chủ tịch của Tổ chức Lepanto có trụ sở tại Rome. Giáo sư Roberto De Mattei nói rằng Giới răn thứ năm cấm việc giết hại người vô tội, nhưng chưa thấy khoản thiên luật nào yêu cầu đón tiếp người nhập cư, đặc biệt là khi những người này có cách nhìn đối lập với Kitô giáo.

Ngược lại, Seifert tin rằng những lời của Đức Giáo Hoàng là một lời nhắc nhở về nghĩa vụ của chúng ta phải san sẻ “cùng một tình yêu và lòng thương xót” cho các thai nhi cũng như cho tất cả mọi người, và vì vậy văn kiện không “tương đối hoá việc dấn thân cho các thai nhi”.

Seifert cho biết thêm: Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh rằng sứ điệp trọng tâm của Tin Mừng – “Những gì anh em đã làm cho những anh em bé mọn nhất của Ta, thì cũng như đã làm cho Ta” – “không chỉ áp dụng cho các thai nhi”.

Ngộ Đạo thuyết và Thuyết Pelagio

Khía cạnh thứ hai trong văn kiện gây ra cuộc tranh luận mạnh mẽ liên quan đến những gì Đức Giáo hoàng mô tả như là hai “kẻ thù tinh vi” ngăn cản hành trình nên thánh là hai lạc thuyết: thuyết Ngộ Đạo và thuyết Pelagio.

Theo Đức Giáo Hoàng, ngày nay những người theo Ngộ Đạo thuyết “xét đoán người khác dựa trên khả năng hiểu biết của họ về sự phức tạp của một vài giáo thuyết”. Họ cũng giản lược giáo huấn của Chúa Giêsu thành một lập luận lạnh lùng và khắc nghiệt để tìm cách thống trị mọi thứ.

Về lạc thuyết Pelagio đương đại, Đức Giáo Hoàng nói chủ thuyết này nói với người yếu đuối rằng “mọi sự có thể được thành tựu với ân sủng Thiên Chúa”, nhưng lại cung cấp ý tưởng rằng “mọi thứ đều có thể do bởi ý chí con người”, và không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự”.

Ngài nói tiếp: “Những người theo “Tân Pelagio” có một “nỗi ám ảnh với lề luật”, “ưu tư xét nét về phụng vụ, giáo lý và uy thế của Giáo hội” và “đưa ra tầm quan trọng quá mức đối với một vài luật”, hơn là muốn loan báo “vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng, tìm kiếm những kẻ lạc lối”. ĐTC yêu cầu Giáo Hội “tránh xa” hai lạc thuyết đang ngăn cản “con đường dẫn đến sự thánh thiện”.

Seifert phê bình Đức Phanxicô trong những đoạn văn này đã đồng hóa cách mơ hồ sự cứng nhắc với tính chính thống. Nhưng Seifert hy vọng “tinh thần luân lý cao cả” của văn kiện xét như một toàn thể biểu thị rằng ĐTC Phanxicô mặc nhiên bác bỏ “mô hình thần học luân lý mới của giáo hoàng” nơi những thần học gia như là Cha Maurizio Chiodi, người gần đây đã dùng Tông huấn của Đức Giáo Hoàng về gia đình, Amoris Laetitia, để biện luận rằng không có gì là “phi luân nội tại” về việc tránh thai.

Những người khác có cái nhìn còn ảm đạm hơn. Pierantoni cho biết văn kiện này có “những trang đẹp và hữu ích về sự thánh thiện”, nhưng ông xem phần nói về Ngộ đạo thuyết và thuyết Pelagio là “trọng  tâm” của Tông huấn và là điểm “yếu nhất và nguy hiểm nhất” của Tông huấn.

Pierantoni xem Tông huấn này như trực tiếp nhắm tới những người gắn bó với “giáo lý và các điều răn chính thống” – tức là một cuộc “phản công” chống lại những vị hồng y đã đề ra the dubia (yêu cầu làm rõ vài điểm trong Tông huấn Amoris Laetitia) và chống lại những người đặt vấn đề xin điều chỉnh Tông huấn trong tâm tình con thảo vào năm trước, cáo buộc Đức Giáo Hoàng truyền bá dị giáo, đặc biệt là qua Tông huấn Amoris Laetitia và những giải thích về Tông huấn.

Ông ta nói các cuộc tấn công chống lại những người bảo vệ cho tính chính thống như thế là “trợ giúp cho sự sai lầm về luân lý hoàn cảnh”, nền luân lý vốn phủ nhận sự tồn tại của các hành vi tội ác tự bản chất, điều mà ông tin là “dị giáo chính yếu của thời đại chúng ta”.

Cả Pierantoni và De Mattei đều nói rằng những đặc tính Ngộ Đạo thuyết và thuyết Pelagio mà ĐTC Phanxicô mô tả không liên quan gì tới Ngộ Đạo thuyết và thuyết Pelagio thực sự, nhưng (theo De Mattei) xuyên tạc “những nền tảng của linh đạo Kitô giáo đích thực”.

De Mattei nói người theo thuyết Pelagio là người tin rằng mình có thể được cứu nhờ sức của chính mình, không cần ân sủng của Thiên Chúa. Ngược lại, theo định nghĩa của ĐTC Phanxicô, người theo thuyết Pelagio lại là những người tin tưởng cách sai lầm rằng ân sủng giúp anh ta tuân thủ thiên luật trong mọi hoàn cảnh và không có ngoại lệ – theo Đức Giáo hoàng, đó là một “ảo tưởng”, điều mà De Mattei cho là không khác chi so với những gì Martin Luther đã nghĩ.

Pierantoni, người đã lưu ý là Mười Điều Răn hoàn toàn không được đề cập trong bản văn, đã gọi việc Đức Giáo Hoàng sử dụng nhãn hiệu “người theo thuyết Pelagio” là “phi lý” và “kỳ cục” khi Đức Phanxicô áp dụng nó cho những người “nhiệt liệt nói về ân sủng Thiên Chúa”. Còn về thuật ngữ “ngộ đạo”, Pierantoni nói rằng nó “được gán ghép một cách vô căn cứ” cho những người “phản đối luân lý hoàn cảnh” và nhấn mạnh rằng có những hành vi gian ác tự bản chất và những khoản thiên luật là không thể thay đổi được.

Những Quan điểm khác

Nhưng người viết tiểu sử cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Austen Ivereigh, tin rằng “không ai chính thống về giáo lý đức tin hơn Đức Phanxicô”; và khi ngài nói về sự cứng nhắc, phản ứng mạnh mẽ (chống lại) “có thể là dấu hiệu” của việc biến “lề luật, hoặc một số định thức giáo lý hay phụng vụ nhất định” thành ngẫu tượng.

Ivereigh nói Đức Giáo Hoàng đang mời gọi mọi người đến với sự thánh thiện đích thực, có nghĩa là “thách thức chúng ta từ bỏ ngẫu tượng của chúng mình”.

Ivereigh nói thêm: Nếu mọi người cảm thấy bị xúc phạm bởi điều đó thì “tốt thôi”, vì như vậy “có nghĩa là họ đang lắng nghe”. Ông khẳng định Đức Giáo Hoàng “thực sự không phải là” đang thù nghịch những người cảm thấy mình bị xúc phạm bởi lời nói của ngài, nhưng là cảnh giác “có thể họ đang lầm đường lạc lối và chỉ cho họ nẻo chính đường ngay”.

Theo Đức Hồng y Müller, “niềm tin vào chân lý trong tín điều của Hội Thánh, ân sủng bí tích của Giáo hội, bí tích cứu độ của thế giới, và thiên luật trong Giáo hội không phải là những ngẫu tượng, mà là nền tảng của Giáo hội Công giáo, “rường cột của chân lý””.

Ngài nói thêm: Tông huấn này “chỉ trở thành phúc lành cho Giáo hội và phục vụ đức tin của người Công giáo nếu những kẻ cơ hội và nịnh bợ không uốn nắn các yếu tố và ném vào những tín hữu nghiêm túc như ném đá vì cho rằng họ phạm tội chống lại sự hiệp nhất trong  Hội Thánh”.

Đức Hồng y đặt vấn đề: “Ai muốn cáo buộc các Nghị Phụ Công Đồng là theo chủ nghĩa duy tín điều trong giáo huấn, cứng nhắc trong luân lý, và duy lề luật trong thiên luật?

Đức Hồng Y Müller nói: “Người chống lại Thiên Chúa trong sự bất tín và bất tuân thì tự làm cho con tim mình nên chai đá và khóa chặt tâm trí của mình”. Ngài nói thêm: “Người cứng nhắc không phải là người giữ trọn Giới răn Thiên Chúa, nhưng là kẻ chối từ giới luật bằng con tim chai đá và đầu óc kiêu căng”.

Đức Hồng y nhấn mạnh Giáo hội là “cộng đoàn những kẻ tin” làm chứng cho “chân lý của Thiên Chúa”,  chứ không phải là một đảng phái chính trị, trong đó những người bảo thủ và tiến bộ “đấu tranh vì quyền lực.” Giáo hội cần “sự hiệp thông nhiều hơn và ít xung đột hơn”.

Còn với Đức Hồng y DiNardo và Seifert, văn kiện thúc đẩy sự hiệp thông qua việc nhấn mạnh các mối phúc. Các mối phúc đưa ra “một hướng dẫn ngắn gọn tuyệt vời cho sự thánh thiện”, Seifert nói thêm rằng Tông huấn “Gaudete và Exsultate” cống hiến một “diễn ngôn bay bổng” cho Bài giảng trên Núi của Chúa Giêsu “và xác tín về giá trị luân lý tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa và lòng thương yêu người thân cận, lòng thương xót, sự nhẫn nại, v.v”.

Đức Hồng y DiNardo gọi các mối phúc là “trung tâm” của Tông huấn, một văn kiện mà “nơi tâm điểm của nó” nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta là những tội nhân đang đi tìm phương dược tăng trưởng đức tin của mình”.

Đức Hồng y nói “Sự hoàn hảo lãng tránh ta, nhưng chúng ta tiến triển trong sự thánh thiện bằng ‘tăng tiến từng bước chậm”.

(tham khảo tiếng Anh tại:http://www.ncregister.com/daily-news/gaudete-et-exsultate-an-assessment)
Tác giả: Edward Pentin Dịch giả: Fx. Nguyễn Văn Thượng . Nguồn: http://hdgmvietnam.com

V/ CẢM NHẬN VỀ TÔNG HUẤN : HÃY AN VUI NHƯNG XIN ĐỪNG AN PHẬN!

A/ HÃY AN VUI! Ý người chia sẻ chọn câu này:

– Niềm vui là một đặc trưng của sự thánh thiện Kitô giáo (GE số 122-128). Niềm vui đó mang lại cho ta sự bình an đích thực. Chỉ có khi niềm vui có Chúa và ở trong Chúa. “Hãy ở lại trong Thầy, Thầy ở lại trong anh em, để anh em được niềm vui, và niềm vui được trọn vẹn.” (Ga ).

Lý do cần phải an vui, nhất là những người tận hiến cho Chúa và được thánh hiến.

1/ Hãy an vui ! Vì nên thánh là mời gọi chung cho mọi tín hữu, đặc biệt là những tu sĩ trong đời sống thánh hiến. Công đồng Vaticanô II tuyên bố rõ: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quí như thế, tất cả các tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành” (Lumen Gentium 11). [số 10]

Nên thánh không phải vì chúng ta đạo đức hơn, tốt lành hơn. Chúng ta không tự hào vì những chuyện đó, nhưng vì trong giới hạn, yếu hèn, khiếm khuyết, và cả tội lỗi chúng ta vẫn được gọi để nên thánh. Các Thánh đã đi trước chúng ta làm chứng điều đó. “Tông thư đưa ra hình ảnh “một đám mây chứng nhân” (12,1) thúc đẩy chúng ta tiến tới không ngừng hướng về đích điểm. Những chứng nhân này có thể bao gồm mẹ, bà ngoại hay những người thân yêu khác của chúng ta (2Tm 1,5). Đời sống của họ có thể không hoàn hảo, nhưng ngay giữa những lỗi lầm và thiếu sót họ vẫn tiến tới và đã làm Chúa vui lòng. (số 3).

Nói cách khác, hãy an vui, vì “Trong Giáo hội, vốn thánh thiện nhưng lại được hình thành bởi các tội nhân, bạn sẽ tìm thấy mọi sự bạn cần để lớn lên trên con đường thánh thiện” (số 15).

Điểm lưu ý đối với GH Việt Nam, ĐTC nhắc đến khoảng 30 “vị thánh” trong Tông Huấn, nhưng không phải mọi người đều đã được tôn phong. Đặc biệt ĐHY Nguyễn Văn Thuận cũng được trích dẫn: “Khi ĐHY P. Xavie Nguyễn Văn Thuận ở trong tù, Ngừơi đã từ khước mòn mòn chờ đợi được trả tự do. Chọn lựa của Người là: “Tôi sống giây phút hiện tại, tràn đầy tình thương”; và các thức cụ thể hóa điều này là: “Tôi lợi dụng những cơ hội xảy ra mỗi ngày, để hoàn thành những công việc thông thường một cách ngoại thường” (n.17, trích từ “5 chiếc bánh và hai con cá”).

2/ Hãy an vui ! Vì Sống tình yêu là nên thánh. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng thánh. (Lv 11,44; 1Pr 1,16) và Thiên Chúa là tình yêu như thánh Gioan định nghĩa (1Ga). Điều này rất gần và thiết thực trong từng bậc sống. Sống tình yêu cách trọn vẹn như CG yêu là không dễ, rất khó! Nhưng nó lại là tiêu chuẩn nên thánh và tiêu chuẩn trong ngày chung thẩm. TH Số 14: “Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Hãy nên thánh bằng cách làm việc với hết khả năng và sự liêm chính để phục vụ anh chị em mình trong yêu thương (số 14). “Kế hoạch của Chúa Cha là Đức Kitô, và là chính chúng ta trong Đức Kitô. Rốt cục, chính Đức Kitô là Đấng yêu thương nơi chúng ta, vì “sự thánh thiện không phải là gì khác ngoài đức ái được sống cách viên mãn”. [24: BIỂN ĐỨC XVI, Giáo lý, Tiếp kiến chung ngày 13.4.2011: Insegnamenti VII (2011]

4/ Hãy an vui! Vì việc nên thánh không phải do ý chí và sức riêng con người mà làm được, nhưng tất cả đều do bởi ơn Chúa. Qua ân sủng Chúa, thấy được phẩm giá cao quý của con người sao quá tầm thường lại trở nên siêu thường trong ơn nghĩa và tình yêu của Chúa.

Ngay số 1 của TH:  Chúa muốn chúng ta nên thánh chứ không hài lòng với một hiện hữu nhạt nhẽo và xoàng xĩnh. Tiếng gọi nên thánh vẫn có đó theo nhiều cách thế trong Thánh Kinh. Ta thấy nó được diễn tả trong lời Chúa nói với Abraham: “Hãy bước đi trước mặt Ta, và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1).

Chính vì những lý do này, mà chúng ta cần phải mừng vui và hân hoan để nên thánh hầu vượt qua những thách đố, rào cản làm ta “không dám sống thánh.”  Đức Thánh Cha đã nói ngài không muốn viết TH này như một khảo luận thần học về sự thánh thiện, nhưng chỉ muốn nhắc nhở các tín hữu về ơn gọi nên thánh trong thời đại hôm nay, qua việc vạch ra những thách đố, những khó khan để nhận diện. Một trong thách đố đó là:

B/ SỰ AN PHẬN! Ý người chia sẻ chỉ muốn nói: an phận là muốn dừng lại trong khi vẫn có thể đi tiếp. Muốn an ổn thay vì can đảm đối diện, muốn khép kín trong khi có thể mở rộng để tốt hơn. An phận chỉ muốn nhận mà không muốn cho. Muốn giữ mà không muốn mất. Vì thế, hãy an vui nhưng đừng an phận.  Tại sao vậy? Thưa TH nói rằng:

2.1. Chúa muốn chúng ta nên thánh chứ không hài lòng với một hiện hữu nhạt nhẽo và xoàng xĩnh.  Vì thế,

2.2. xin Đừng an phận! Nghĩa là co rút trong an toàn. “Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút khỏi các công việc hằng ngày để dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện.” (số 14)

TH số 27: “Thật là không lành mạnh việc yêu sự thinh lặng mà tránh né tương tác với người khác, việc muốn an tĩnh theo nghĩa không hoạt động, việc tìm kiếm cầu nguyện trong khi không quan tâm đến phục vụ. Chẳng lẽ Chúa Thánh Thần có thể thúc giục chúng ta thi hành một sứ mạng, và rồi lại yêu cầu ta bỏ sứ mạng đó, hoặc đừng tận tâm tận lực cho nó, để giữ sự bình an bên trong của mình? Thế nhưng có những lúc chúng ta bị cám dỗ xem việc dấn thân cho mục vụ hay cho thế giới là điều thứ yếu, như thể đó là “những chia trí” trên con đường thánh thiện và bình an nội tâm.”

2.3. Xin Đừng an phận vì an phận là chỉ tìm kiếm sự giải trí hoặc khoái cảm phù du mà quên mất đi hoặc sự nhạt nhẽo của sự quảng đại và tinh thần phục vu người khác. TH nói “những chia trí ấy, vốn tràn ngập trong thế giới hôm nay, sẽ làm cho chúng ta có xu hướng tuyệt đối hóa thời gian rảnh của mình, trong đó chúng ta lao mình vào những thiết bị cung cấp cho ta sự giải trí hay những khoái cảm phù du. [29] Từ đó, chúng ta trở nên bực bội với sứ mạng của mình, sự dấn thân của ta hóa nên ì ạch, tinh thần quảng đại và sẵn sàng phục vụ của ta bắt đầu suy giảm. Điều này làm biến chất kinh nghiệm thiêng liêng của chúng ta. Làm sao có thể có một lòng sốt sắng thiêng liêng lành mạnh khi bên cạnh nó là sự uể oải lười biếng đối với việc loan báo Tin Mừng và việc phục vụ tha nhân? (số 30)

2.4. Hãy An vui chứ không đừng an phận!

Xã hội hôm nay nhấn mạnh thụ hưởng và cá nhân. Điều này, dẫn đến Chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ rồi đưa đến sự suy thoái của chúng ta, vì khi chúng ta mải mê tìm lạc thú cho mình, chúng ta sẽ trở thành quá bận tâm về chính mình và về các quyền lợi của mình, và chúng ta cảm thấy quay quắt cần thời gian để hưởng thụ. (số 108)

TH đưa ra trưng dẫn ngôn sứ Giôna, chúng ta thường xuyên bị cám dỗ trốn tránh ở một chỗ trú an toàn. Chỗ trú ấy có thể mang nhiều tên: cá nhân chủ nghĩa, duy thiêng liêng, sống trong một thế giới nhỏ, tình trạng nghiện, chủ trương không khoan nhượng, bác bỏ những ý tưởng và những phương pháp mới, giáo điều, hoài cổ, bi quan, nấp đàng sau các luật lệ và qui định (số 134)

2.5. Đừng An phận vì dễ rơi vào tình trạng sự thánh thiện lầm lẫn: 2 kẻ thù tinh vi của thánh thiện.

TH số 36 nêu ra hai dạng thánh thiện lầm lẫn và có thể dẫn ta đi lạc: đó là ngộ đạo thuyết (gnosticism) : trí năng như tách rời khỏi xác thịt, và do đó họ thiếu khả năng đụng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân, điều xảy ra là họ khép kín mình lại trong một từ điển bách khoa về những khái niệm trừu tượng. Ngoài ra, do việc tước cái cụ thể khỏi mầu nhiệm, họ nghiêng chiều về “một Thiên Chúa mà không có Đức Kitô, một Đức Kitô mà không có Giáo hội, và một Giáo hội mà không có dân chúng của mình”. [36] Đó là giáo thuyết không có mầu nhiệm. Nghĩa là “đề cao quá đáng sự hiểu biết hay một kinh nghiệm chuyên biệt nào đó, thì nó coi cái nhìn của nó về thực tại là toàn hảo.” (số 40).

Điều này ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn thế nào? Thiếu sự tinh tế và dẫn tới lộn xộn”. [39] (số 43)

TH số 45: Ngoài ra, đưa đến nguy hiểm: Chúng ta có thể nghĩ rằng bởi vì mình biết một điều gì đó, hay mình có thể giải thích nó bằng một số lời lẽ, thì do vậy mà chúng ta đã là các vị thánh rồi, hoàn hảo và tốt hơn “những đám đông dốt nát” kia. Thánh Gioan Phaolô II cảnh báo về cái cám dỗ đối với những người ở trong Giáo hội vốn được học cao hiểu rộng, dễ “cảm thấy cách nào đó rằng mình ở đẳng cấp cao hơn các tín hữu khác”. [41] Thực ra, những gì chúng ta nghĩ rằng mình biết nên luôn thúc đẩy chúng ta đáp trả trọn vẹn hơn đối với tình yêu của Thiên Chúa. Quả vậy, “bạn học là để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau”. [42]

Ngộ đạo thuyết mở đường cho một lạc thuyết khác, cũng đang có mặt trong thời của chúng ta, đó là :   THUYẾT PÊLAGIÔ (PELAGIANISM

TH 48. Cái sức mạnh mà những người ngộ đạo gán cho trí năng, thì giờ đây nó bắt đầu được những người khác gán cho ý chí, tức sự nỗ lực riêng của con người. Đây là trường hợp của những người theo thuyết pêlagiô và nửa-pêlagiô. Người ta quên mất rằng mọi sự “tùy thuộc không phải vào ý chí hay nỗ lực của con người, nhưng tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng thương xót” (Rm 9,16) và rằng “Ngài đã yêu chúng ta trước” (x. 1Ga 4,19).

Đề cao ý chí mà thiếu lòng khiêm nhường. “Họ chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình và cảm thấy mình cao hơn người khác bởi vì họ giữ một số qui tắc hay kiên thủ trung thành với một phong cách Công giáo nào đó”. [46) – số 49

Thuyết dẫn đến thiếu sự kiên nhẫn = Sự tiệm tiến nên thánh.

  Giáo hội không ngừng dạy rằng chúng ta được công chính hóa không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng mình, nhưng là bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. GLCG: ân sủng được trao ban thì “vượt quá năng lực của trí năng và ý chí con người” và rằng “đối với Thiên Chúa, con người chẳng có quyền đòi hỏi Ngài bất cứ gì cả. Giữa Thiên Chúa và chúng ta là một khoảng cách khôn lường”. (số 54)

III/ LÀM SAO GIỮ ĐƯỢC SỰ AN VUI MÀ KHÔNG AN PHẬN?

1/ Sống theo tinh thần Bát Phúc.

TH số 64: sống các mối phúc như chất men Thánh lan tỏa: Nó là cách sống có thể là ngược dòng, nhưng lại là phúc. Từ “hạnh phúc” hay “được chúc phúc”, vì thế, trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả sự thật rằng những ai trung thành với Thiên Chúa và lời của Ngài, bằng cách trao hiến chính mình, thì đạt được hạnh phúc đích thực.

Từng lời kết trong 8 mối phúc diễn tả nên thánh: Nghèo khó trong tâm hồn: đó là thánh thiện.
Cư xử với sự hiền lành và khiêm nhường: đó là thánh thiện.
Biết cách khóc than với tha nhân: đó là thánh thiện.
Đói khát sự công chính: đó là thánh thiện.
Biết nhìn và biết hành động với lòng thương xót: đó là thánh thiện
Giữ một trái tim tự do khỏi tất cả những gì làm ố nhiễm tình yêu: đó là thánh thiện. Gieo rắc sự bình an khắp xung quanh mình: đó là thánh thiện
Chấp nhận sống con đường của Tin Mừng hằng ngày, dù có thể phải trả giá: đó là thánh thiện.

2/ Sống niềm vui và khiếu hài hước

 TH số 122: Các thánh không rụt rè, rầu rĩ, chua chát hay u uất, cũng không mang một vẻ mặt thê thảm, các ngài rất vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh. Mặc dù rất thực tế, các ngài vẫn phản chiếu một tinh thần tích cực và hy vọng. Đời sống Kitô hữu thì “đầy niềm vui trong Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui; vì ai yêu thương thì vui mừng được kết hợp với người mình yêu… đức ái đem lại niềm vui”. Nếu chúng ta để cho Chúa lôi kéo ta ra khỏi vỏ ốc của mình và thay đổi đời sống mình, thì chúng ta có thể đáp lời Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên!” (Pl 4,4).

TH 123: Các ngôn sứ đã loan báo về thời của Chúa Giêsu, là thời mà chúng ta đang sống đây, như một mạc khải của niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên thật mạnh mẽ!” (Is 40,9). “Núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỉ, Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Ngài là Đấng Toàn Thắng” (Dcr 9,9). Chúng ta cũng không quên huấn dụ của Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì của anh em!” (8,10).

3/ Hãy góp phần làm cho cộng đoàn niềm vui.

TH: Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một số cộng đoàn thánh thiện. Lúc này lúc khác, Giáo hội đã tuyên thánh trọn cả những cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên

Quan tâm đến nhau hơn là dù là chi tiết nhỏ nhất, nhưng nó phải xuất phát từ tình yêu.

TH 144: Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ chú ý đến các chi tiết.

 Chi tiết nhỏ như chuyện hết rượu tại một tiệc cưới.
Chi tiết nhỏ như chuyện lạc mất một con chiên.
Chi tiết nhỏ như việc nhận ra bà góa dâng cúng hai đồng tiền kẽm.
Chi tiết nhỏ như việc mang dầu dự phòng cho đèn, phòng trường hợp   chàng rể đến trễ.
Chi tiết nhỏ như việc hỏi xem các môn đệ có bao nhiêu chiếc bánh.

Quan tâm là bổ sung cho nhau trong tình huynh đệ. Những lời nói động viên, an ủi, khích lệ, rất cần… để cho được an vui…  Nếu chúng ta quá quan tâm chính mình, chúng ta sẽ không còn thời giờ cho người khác”. [94]

Một cộng đoàn biết trân quí những chi tiết nhỏ của tình yêu, [107] trong đó các thành viên quan tâm đến nhau, tạo ra một môi trường cởi mở và có sức loan báo Tin Mừng, đó là một nơi mà Chúa Phục sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha.

V/ LỜI KẾT

1/ Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. (số 32)

2/ Chúa Thánh Thần giúp ta nên thánh.
Bạn đừng sợ việc hướng nhìn cao hơn, cho phép Thiên Chúa yêu bạn và giải phóng bạn. Đừng sợ để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Sự thánh thiện không làm cho bạn ít là người hơn, vì đó là một gặp gỡ giữa sự yếu đuối của bạn và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa. Vì như cách nói của Léon Bloy, rốt cục, “bi kịch thảm hại duy nhất trong đời sống, đó là không nên thánh”. [32] (số 34)

3/ Nếu khẳng định rằng vui tươi là đặc trưng của sự thánh thiện, thì lật ngược lại mệnh đề cũng không sai: vui tươi cũng là một phương tiện để nên thánh. “Đừng hài lòng với cuộc sống tầm thường, tô màu, không có chất lượng cao”.

Khi chúng ta sống xa cách người khác, thật khó để chống lại nhục dục, chống lại những cái bẫy, những cám dỗ của ma quỉ, và sự ích kỷ trong thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, đánh mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng bên trong, và dễ dàng đầu hàng. Điều này dẫn đến sự an phận thủ thường.
Vậy xin hãy an vui nhưng xin đừng an phận!

CÁC CÂU HỎI THẢO LUẬN HOẶC SUY NIỆM

1/ Đâu là đường nên thánh trong đời sống cộng đoàn?
2/ Tông huấn có mang lại điều gì đó cho cá nhân hoặc cho cộng đoàn?

 Phê-rô Lâm Phước Hùng, OP