NGẮM MƯỜI LĂM SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU
Francis Assisi Lê Đình Bảng
1/ Năm nào cũng vậy. Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và diễn ra liền mạch 5 tuần lễ tiếp theo. Dọc dài quãng thời gian này, trong ngoài nhà thờ, từ tượng ảnh, khăn phủ nhà chầu Thánh Thể, đến cả lễ phục của chủ tế, thảy đều màu tím than. Váng vất điều gì, như một thoáng thanh tĩnh, u trầm, chay tịnh ở khắp nơi, từ cảnh vật bên ngoài, đến lòng người, u ẩn, riêng tư. Có muốn, cũng chẳng được nghe ngân vang đàn hát Kinh Vinh Danh( Gloria ) và tung hô Tin Mừng(Alleluia), mỗi sớm mai đầu lễ. Bù lại, cứ chiều tối các ngày chẵn trong tuần, nhà thờ nào cũng đầy chặt những người là người, tề tựu đông đủ cùng nhau đọc kinh, lần hạt Mân Côi. Xen kẽ sau mỗi chục(hoặc 3 kinh Kính Mừng) thì Suy Ngắm về Sự Thương Khó của Đức Chúa Giêsu( 5, 10 hoặc trọn bộ 15 ngắm ). Cử hành việc thiêng liêng này, miệng đọc – lòng suy mà tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trên suốt những chặng đường Cứu Độ lên Núi Sọ. Thực ra, không hề thấy Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó – hiểu như là một điều bắt buộc phải có của Phụng vụ – trong Lịch Công giáo quanh năm. Có chăng, chỉ là một nghi thức bên lề Phụng vụ, được cảm hứng từ một bản văn tường thuât về Cuộc Khổ Nạn của Đức Chúa Giêsu, mà thuật ngữ của Phụng vụ quen gọi là Bài Thương Khó. Và đặc biệt, được diễn cảm, phân cảnh theo từng chương hồi, bằng cung cách tế tự và bằng thứ ngôn ngữ , cung bậc ca vãn rất riêng của những cộng đoàn Việt Nam Công giáo ở ngay buổi hừng đông mới đón nhận Tin Mừng, nửa đầu thế kỷ 17.
Càng đọc kỹ những trang bút ký – Histoire du Royaume de Tunkin, 1651; Divers Voyages et Missions, 1653 của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và của các nhà truyền giáo dòng Đa Minh, dòng Phan xi cô – càng hiểu rõ hơn hoàn cảnh phát sinh, thời điểm ra đời và cả những chỉ dẫn rất cẩn trọng cho việc cử hành nghi thức suy ngắm này :”Năm 1644, ở Hội An, giáo hữu hát những lời than thở bằng tiếng bản quốc rất thảm thiết về sự thương khó của Đức Chúa Giêsu. . . Chúng tôi đã chia các mầu nhiệm thương khó ra làm 15 đề tài. Cứ sau khi đọc chung 10 kinh chuỗi hạt thì ngắm một đoạn và suy niệm. . . “Thói quen lành thánh ấy-như một truyền thống-đã được các thế hệ về sau, dù ở xứ Đàng Trong hay Đàng Ngoài – kế thừa, chấp hành rất nghiêm túc. Cụ thể là sách Thánh Giáo Kinh Nguyện của các giáo phận thuộc miền Thừa Sai Paris( Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Thanh Hoá. . . ); sách Toàn Niên Kinh Nguyện của các giáo phận miền Dòng Đa Minh( Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình, Lạng Sơn. . . ) và sách Mục Lục Nhựt Khoá của miền đạo thuộc Trung, Nam bộ( Vinh, Huế, Qui Nhơn, Nam Kỳ Địa Phận. . . )là những dẫn chứng còn đậm nét nhất. Đây, xin mời đọc lại”lời bảo” in trong Thánh Tuần Sự Vụ – CaHát Mùa Chay của sách Mục Lục:”Đến giờ Ngọ thì dọn mình mà chầu Chúa. Trên bàn thờ, thắp hai cây đèn. Dưới và trước bàn thờ, đặt một chơn đèn lớn mà cắm mười lăm cây đèn. Đoạn thì than mười lăm sự thương khó, cứ than và lần hột một chục thì tắt một cây đèn bên hữu; đoạn than một thứ khác và lần hết một chục thì tắt một cây đèn bên tả và làm như vậy cho đến hết mười bốn cây đèn; còn một cây trên đảnh thì chớ tắt, mà để đọc kinh Chúng Tôi Là Vật Mọn. Đoạn thì cất cây đèn ấy xuống, để phía sau bàn thờ cho khuất, rồi than Kinh Thẩm Phán. . . “
2/Ở bên Tây, bên Mỹ thế nào, không rõ. Chứ ở Việt Nam ta – đặc biệt, tại các nhà thờ xứ đạo làng quê – Mùa Chay và Tuần Thánh đã diễn ra rất trọng vọng và phong phú. Cả về kinh sách, lễ nhạc( hình thức ); cả về cảm thức thánh thiêng (nội dung). Nếu tôi nhớ không nhầm thì Mùa Chay thuở ấy, xa thật xa trước Công Đồng Vatican II – được chuẩn bị kỹ lắm, chi li từng tí một. Nói như người bây giờ, là chuẩn bị từ xa, xa những 3 Chúa nhật trước Thứ Tư Lễ Tro, được đặt tên riêng bằng tiếng La Tinh và rao trong Lịch Công giáo đàng hoàng: Septuagesima ( thứ 70 ); Sexagesima ( thứ 60 ) và Quinquagesima ( thứ 50 ). Như thế, rõ ràng là đã có một Lễ Hội Mùa Chay Cả, một Tuần Đại Phúc rất bài bản và không thiếu sắc màu, cảm xúc. Thậm chí, dân gian nhà đạo mình còn đặt cho nó một cái tên là Mùa Thương Khó. Ngạc nhiên chưa, thương khó cả một mùa, thương khó mà lại dễ thương làm sao!. Nhớ và thương suốt cả một đời, chứ chẳng dễ phôi pha, bèo bọt đâu.
Chu kỳ lễ hội mùa Chay này dễ nhớ và dễ thương, vì nó vừa vận hành với thời vụ, hoa mầu, với con nước, tuần trăng của đồng áng; lại vừa ăn khớp nhịp nhàng với bước đi chộn rộn của những hội hè đình đám ra Giêng ở ngoài đời. Đạo và đời cứ như hoà quyện vào nhau, ràng ríu, quấn quýt, như bóng với hình, rất nhuần nhị, chan hoà. Đến nỗi, có nhiều nơi, người bên lương và nhà chùa cũng tham gia, công đức, cúng dường với người bên đạo, như một lễ hội chung của thôn làng vậy.
Tháng Giêng, ăn Tết ở nhà. . .
Tháng Hai, trồng đậu, tháng Ba trồng cà #Tháng Hai, Ngắm đứng, tháng Ba, ra mùa. . .
Còn nhớ như in, kinh Bổn lớp Đồng Ấu thuở ấy dạy bọn trẻ chúng tôi thế này:”Xem lễ ngày chủ nhật, cùng các ngày lễ buộc. . . Xưng tội trong một năm ít là một lần/Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh”. Bởi mỗi năm chỉ có một lần, thế nên, người ta nghỉ ngơi tất tần tật mọi việc nặng nhẹ, xa gần. Tạm gác một bên những mùa màng, bán buôn, chợ búa, vườn tược, chỉ để dọn mình xưng tội, rước lễ, đặng”ăn mày các ơn ích thiêng liêng mùa chay cả”. Cũng là để hồn xác được thong dong, thư nhàn, hoà mình vào sinh hoạt nhà thờ, nhà thánh, đoàn thể, xứ họ, sau một năm lam lũ, vất vả vì manh áo miếng cơm. Bởi thế, chẳng cần ai bảo ai. Mỗi người, mỗi giới, mỗi việc. Cứ răm rắp như là việc chung đã thành nề nếp của đất lề, quê thói, đời trước đến đời sau. Trong số những bộn bề bất thành văn ấy, đáng nói và tập trung chú ý hơn cả, vẫn là Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu. Truyền thống này hình như đã quá in sâu vào tâm thức, đủ sức lan toả, lôi cuốn mọi người vào cuộc. Chỉ tính rặt một sự kiện”Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu” thôi, đã nhiêu khê, chồng chéo lắm rồi. Nào, ngắm đứng, ngắm quỳ, ngắm rằng, ngắm nhân sao( ngắm đơn); nào, ngắm dấu đanh, ngắm nhân tài, ngắm lễ đèn( ngắm kép/ ngắm trọng thể); nào, đi đàng thánh giá v. v. . Mỗi thứ, mỗi vẻ, mỗi công đoạn, mỗi cách thể hiện lòng đạo, đức tin. Mỗi nơi, mỗi thời mỗi thêm bớt, đậm nhạt. Hỏi chứ, làm sao mà tránh cho khỏi những suy diễn, ngoại thư, hư cấu, thêm bớt, hoa hoè, hoa sói, điều tiếng, khen chê, đúng sai ? Cũng vậy, làm sao không vướng víu vào cảm tính bi luỵ thường tình, những khoảnh khắc lan huệ sầu ai của những người con Chúa mau nước mắt ?Những ai đã từng sống một thuở một thời với nhà thờ – xứ đạo – làng quê, hẳn còn nhớ cái cảnh tóc rối đầu tang, một trời khăn trắng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh? Người ta bảo, là để tang Chúa đấy!Thế mới hay, cái khuynh hướng chung về tâm lý, hình như bao giờ cũng nghiêng chiều về đường cay đắng, khổ ải, đau thương? Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu – hơn hai nghìn năm rồi – mà vẫn cứ là đề tài còn tươi nguyên tính thời sự – khơi gợi biết bao nhiêu nguồn cảm hứng cho các thể loại văn học, nghệ thuật ? Dầu sao, để phán xét một cách khách quan và công bằng, phải đặt Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó vào đúng thời điểm lịch sử của nó. Đó là cái thời lịch sử đất nước ta đang chìm trong cảnh cát cứ, cương vực Trịnh Nguyễn phân tranh ở đôi bờ sông Gianh; giữa ảnh hưởng nhập nhoà, cũ mới, gần xa của Hán, Nôm thịnh mãn và Quốc ngữ còn phôi thai. Và cũng là lúc lòng người chưa thoát ra khỏi cái không khí ảm đạm, u hoài của tử biệt sinh ly, qua giọng bi ai, nhấn nhá, trầm bổng bàng bạc trong học quốc âm, như các thể loại : Vè, Vãn, Ca, Ngâm. Dường như, có thể nói, kinh văn nguyện cầu trong nhà thờ và thơ văn ngoài đời đang có chung những tần số rung cảm có hơi hướm của lâm khốc biệt hành hơn là lưu thuỷ, hành vân. Từ Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1587) đến Ngoạ Long Cương Vãn và Tư Dung Vãn của Đào Duy Từ(1572-1634). Từ thư mục kinh sách của giáo sĩ Girolamo Majorica(1591-1656), cho đến Cảm Tạ Niệm Từ của Thầy giảng Phan Chi Cô(1640) và Sấm Truyền Ca về sau này của Thầy cả Lữ-Y Đoan(1670). . . Không lạ gì, bên cạnh đó, còn bao nhiêu là thứ nghi thức, phụ hoạ gần xa để làm giàu cho kịch bản”Mùa Thương khó”, như:hái lá dừa, rước lá dừa(thay cho cành lá ô liu, một sáng kiến của giáo sĩ Alexandre De Rhodes), rửa chân, rang nẻ gạo tám thơm, hái hoa xoan, nấu xôi làm con chiên, diễn tuồng thương khó, dâng hạt, kiệu bắt, đọc đoạn, đóng đanh, tháo đanh, táng xác, hôn chân, , than mồ v. v. Đấy là chưa nói tới trường hợp Ngắm Thương Khó một cách trọng thể, gọi là Ngắm Dấu Đanh, Ngắm Lễ Đèn và Ngắm Nhân Tài vào chiều tối Thứ Sáu Tuần Thánh. Có đầy đủ lễ bộ, chương khúc, có phụ đệm của sênh phách, để cầm trịch thưởng phạt; có nhị, hồ, mõ, trống, chiêng, não bạt, nghi trượng, lễ tân, nghe cũng không kém phần dìu dặt theo kiểu nhã nhạc cung đình. Ghi nhận lại như trên, chẳng phải vẽ vời hoa lá cành của kẻ viết bài này đâu. Mà bức tranh đầy cảm xúc thánh thiêng này còn thấy hiện ra ngay trong chữ nghĩa, chấm, phảy của các thư mục thuộc dạng”bản tường trình của Dòng Tên, 1645-1653″:”Thật phải ngợi khen Thiên Chúa, khi thấy giáo dân kiên trì thức khuya để dự lễ. . . Họ ngâm những bài ca rất sầu thảm bằng ngôn ngữ của họ, như muốn đổ dòng nước mắt để rửa cho họ và dâng cho các Thiên Thần ngự ẩm. . . “
3/Đến nay đã trên dưới 400 năm rồi(1651-2019).
Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó, trước sau, vẫn tồn tại nơi các cộng đoàn xứ đạo, dòng tu. . Cứ coi như đây là một trong những nỗ lực mang tính sáng tạo bước đầu để giúp tín hữu người Việt mình thời ấy có điều kiện tiếp cận và thông dự phần nào vào đời sống thiêng liêng của Mùa Chay. Nên nhớ cho rằng buổi ấy, kinh sách của nhà đạo mình đang ở trong tình trạng phôi thai về mặt chữ nghĩa pha trộn La Tinh, Hán, Nôm và Quốc ngữ. Mãi đến những thập niên 1960 của thế kỷ trước, dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II và với kỹ thuật in ấn hiện đại, tình trạng cũ ấy mới chuyển đổi, như ta thấy ngày nay. Thật lòng mà nói, phải tạ ơn Chúa thương. Suốt mấy trăm năm (1651-1965), Hội Thánh Công giáo ta yêu, cứ từng bước một, lớn dần lên, vươn vai dài rộng. Dù Hán, dù Nôm, dù La Tinh, dù Quốc ngữ, ấy vậy mà cứ vang rền nền nảy, thông giọt, bén đồng, thật hiếm thấy trên cõi đời này. Tôi muốn nói tới kinh sách lễ nhạc của một thời đã qua, có cả những cảm xúc ở tận đáy thẳm vô thức, vô ngôn, không lý giải minh triết đươc. Rất đề huề, có nơi, có chốn hẳn hoi.
Các thầy đọc tiếng La Tinh
Các cô con gái thưa kinh dịu dàng.
Xét cho cùng, cả về hình thức, lẫn nội dung, tuy Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó chỉ dừng lại ở cái ngưỡng cửa của phạm trù” lòng đạo đức dân gian “, nhưng thật sự đã xuất phát từ lòng khát khao của tổ tiên – ông cha ta muốn được hoà nhập vào dòng chảy Đức Tin – Văn Hoá chung của Giáo hội Công giáo ngay từ buổi đầu. Vừa là lịch sử, vừa là văn hoá, ngôn ngữ, lại vừa mang dấu ấn của đức tin, không thể xem thường. Mà đã là đức tin, là văn hoá thì chẳng phải là chuyện muôn thuở muôn đời sao?Ai nỡ để cho gió cuốn đi? Ngay đến vật chất phù vân, nhẹ bấc như gấm vóc, lụa là mà cũng mãi đậm đà nhan sắc nữa là:”Lụa không nhàu, màu không nhạt !” Huống hồ là văn hoá, là đức tin. . .
Để khép lại câu chuyện kinh hạt nhà đạo này, chi bằng học đòi Cụ Nguyễn Du mà”đốt lò hương cũ, so tơ phím này”. Và chi bằng, lặng lẽ đi tìm thời gian đã mất thôi.
Mấy trăm năm qua, bản kinh văn ấy, cách cử hành ấy, ngôn ngữ và cung bậc ấy, tuy đôi khi có nhạt nhoà, biến tấu hoặc bị lãng quên chút nào đi chăng nữa thì xem ra vẫn còn đâu đấy, như một ký ức Đức Tin – Văn hoá trong lòng người con Chúa Việt Nam. Bởi vì mỗi năm, lòng ai kia, như vẫn bồi hồi bước vào Mùa Chay Thánh, khi cầm đọc và ngâm nga bản kinh văn ấy trên mặt giấy bản đã ố vàng cũ nát, mỏng tang. Trong khi ấy, ngoài kia là sân vườn, là ngõ trúc, bờ tre và dọc đường thôn đến nhà thờ, cứ ngây ngây mùi cốm mới ra Giêng và hoa xoan nồng nàn, loài hoa tim tím, chỉ nở đúng một lần, vào mùa thương khó . Đã kinh qua bao thế hệ và bao nhiêu cơn bão lũ nhiễu nhương của thời cuộc, phải chăng, cha ông ta đã biết đạo, vào đạo, giữ đạo, sống đạo, yêu đạo và truyền đạo một cách rất thuần thành, kiên định bằng chính cái hơi thở thiêng liêng, bằng chính máu thịt, hồn cốt thoát ra từ kho tàng văn hoá phi vật thể, là Kinh Sách, Lễ Nhạc ? Nếu cơm gạo nuôi sống phần xác thì kinh hạt cũng đã thấm đẫm vào miền đất tâm hồn, để hạt giống Lời Chúa lớn lên, sinh hoa kết trái vậy?Nói như sử gia Tư Mã Thiên thì kinh sách là gì, nếu chẳng phải là tao phách của tiền nhân, tiên tổ dạy dỗ và gửi gắm cho con cháu đời sau biết thế nào là sống thuận ý trời và vừa lòng người. Trở lại với bài báo nho nhỏ này , bản thân kẻ viết trộm nghĩ mình như đang bơi ngược dòng sông, hoạ may tìm được chút gì vang bóng của một chặng thời gian đã xa lắc xa lơ. Chẳng hiểu, rồi đây, trong vòng xoáy của tốc độ công nghiệp và đô thị hoá, hỏi chứ, gìn vàng giữ ngọc cho ai và những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ ?
“Của cải mẹ cha cho, có vậy
Để dành, khi con lớn, con khôn
Những câu kinh sách, phiên chầu lễ
Đã thấm vào da thịt, máu xương
Đã nên nhân đức, nên lòng đạo
Nuôi sống cả đời con, xác hồn.