“Thiên Chúa đã ban thưởng cho Mẹ Maria vinh quang và danh dự như một kiệt tác của tình yêu Ngài.” [ ]
Hôm nay, Giáo hội mừng kính lễ Truyền Tin. Biến cố ấy báo trước sự khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta qua Mẹ Maria, người đã quảng đại thưa tiếng ‘Xin vâng’ (Xin hãy làm cho tôi…) qua việc đáp trả lời mời gọi cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều biết rằng câu trả lời ngoại lệ của Mẹ Maria không phải của chính Mẹ, bởi vì Mẹ đã được tràn đầy quyền năng và ân sủng của Thánh Thần đến nỗi Mẹ có thể vươn đến những tầm cao này. Chúa Cha đặc biệt đã chuẩn bị cho Mẹ Maria trở thành một khí cụ để cộng tác với Ngài, vì thế thật là phù hợp khi nhìn nhận Mẹ như là ‘kiệt tác của tình yêu Ngài’.
Thế nhưng, Mẹ Maria không bao giờ quên rằng chính Mẹ không gì khác hơn là nữ tỳ của Chúa, một trinh nữ đơn sơ mà dưới cái nhìn của người đương thời hoàn toàn chỉ là một người ‘vô dụng’ trong vai trò làm mẹ. Mặc dù đã đính hôn với Giuse, thế nhưng Mẹ đã không sinh con, điều duy nhất sẽ đem lại địa vị cho Mẹ dưới nhãn quan của xã hội. Mẹ hoàn toàn nhận ra rằng sự vĩ đại của Mẹ không hệ tại nơi chính bản thân Mẹ cũng như nơi những tài năng tự nhiên, nhưng hệ tại nơi công trình và sự chọn lựa của Chúa Cha. Vì thế, Mẹ đã thốt lên rằng: ‘Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Ngài là thánh’, thì Mẹ cũng thêm rằng ‘Ngài đã đoái đến phận nữ tỳ hèn mọn vì từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phúc’ (Lc 1,4655).
Mẹ Maria nhắn nhủ chúng ta qua chính con người của Mẹ về nghịch lý của người Ki-tô hữu: chính những tội nhân yếu đuối và tan nát cõi lòng lại là những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành những khí cụ cho công trình vĩ đại của Ngài. Phao-lô tự coi mình như một ‘đứa trẻ sinh non’ (1Cr 15,8) hay như ‘tội nhân tồi tệ nhất’ (1Tm 1,12) thế nhưng ngài lại là ‘lợi khí Ta chọn’ (Cv 9,15) trong bàn tay của Thiên Chúa. Bấy giờ bài học dành cho chúng ta, đó là: khi nhìn vào Mẹ Maria, chúng ta nên sẵn sàng chấp nhận sự hư không và những giới hạn của chính mình mà không cố gắng che giấu chúng đi hay lý luận hay thậm chí đổ lỗi cho người khác. Chúng ta cũng không nên xấu hổ hay sợ hãi lao vào công việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa vì những giới hạn này của chúng ta. Sau cùng, không phải chính sức mạnh hay sự chân thật của chúng ta sẽ chinh phục được nhiều người cho Nước Trời, nhưng chính tình yêu Thiên Chúa đã kết nối chúng ta với người khác. Bao lâu chúng ta có thể đón nhận tình yêu Thiên Chúa mà không bị thống trị bởi chính cái tôi hay chủ nghĩa cá nhân của mình, bấy giờ Nước Trời sẽ lan rộng, thậm chí không cần sự hiểu biết của chúng ta hay không cần đến bất kỳ sự đóng góp nào của chúng ta.
Nếu việc tôn kính Mẹ Maria khơi lên lòng can đảm và tinh thần quả cảm nơi chúng ta, thì việc ngợi khencủa chúng ta dành cho Mẹ sẽ không bao giờ bị đặt sai vị trí vì chúng ta tôn kính và ngợi khen điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi cuộc đời Mẹ, đặc biệt Mẹ như một mẫu gương cho chúng ta noi gương bắt chước trong lúc gặp thử thách, để có thể quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thậm chí khi chúng ta vừa thất bại cả về lòng quảng đại lẫn sự trung tín, chúng ta có thể chạy đến với Mẹ để xin sự hướng dẫn, hầu có thể trở về đường lối của Chúa đã được dành sẵn cho chúng ta, và cuộc đời Mẹ sẽ khuyến khích chúng ta làm tốt hơn trong tương lai. Cần biết rằng hầu hết các Ki-tô hữu không chấp nhận Mẹ Maria như một mẫu gương và nguồn cảm hứng, nhưng chỉ đến với Mẹ để được giải gỡ những khó khăn, có thể nói như vậy!