Tông huấn Sacramentum caritatis (Phần thứ hai)

PHẦN THỨ HAI
THÁNH THỂ, MẦU NHIỆM ĐƯỢC CỬ HÀNH

“Thật, tôi bảo thật các ông :
không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu ;
mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời,
bánh đích thực” (Ga 6,32)
Luật cầu nguyện (lex orandi) và luật đức tin (lex credendi)
34. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã suy tư thấu đáo mối liên hệ nội tại giữa đức tin Thánh Thể và cử hành Thánh Thể, làm nổi bật sự nối kết giữa qui luật cầu nguyện (lex orandi) và qui luật đức tin (lex credendi), và nhấn mạnh vị trí hàng đầu của hành động phụng vụ (actionis liturgicae). Thánh Thể cần được cảm nghiệm như một mầu nhiệm đức tin, được cử hành một cách chân thực và với một ý thức rõ ràng rằng “sự hiểu biết của đức tin (intellectus fidei) liên hệ chặt chẽ với hành động phụng vụ của Hội Thánh”[1]. Trong lãnh vực này, suy tư thần học không bao giờ có thể bỏ qua trật tự bí tích do chính Chúa Giêsu thiết lập. Mặt khác, không quan tâm đến mầu nhiệm đức tin thì hành động phụng vụ cũng không thể có được cái nhìn bao quát. Đức tin của chúng ta và phụng vụ Thánh Thể, cả hai đều bắt nguồn từ cùng một biến cố : đó là Đức Kitô tự hiến chính mình trong Mầu nhiệm vượt qua.
Cái đẹp và phụng vụ
35. Mối liên hệ giữa mầu nhiệm được tin nhận và được cử hành biểu lộ cách đặc biệt nơi giá trị thần học và phụng vụ của cái đẹp. Như được chứng minh trong mạc khải kitô giáo, phụng vụ vốn có mối liên hệ với cái đẹp : đó là ánh rạng ngời chân lý (veritatis splendor). Phụng vụ là ánh rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, trong mầu nhiệm này Đức Kitô lôi kéo chúng ta đến với Người và mời gọi chúng ta hiệp thông. Như thánh Bônaventura nói, trong Chúa Giêsu chúng ta chiêm ngắm cái đẹp và ánh rạng ngời tại chính cội nguồn của chúng.[2] Đây không phải là tính thẩm mỹ đơn thuần, nhưng là cách thức cụ thể để chân lý về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta, hấp dẫn chúng ta và làm chúng ta hân hoan, khi đưa chúng ta ra khỏi chính mình và hướng chúng ta đến với ơn gọi đích thực của chúng ta : là tình yêu.[3] Ngay trong tạo dựng Thiên Chúa đã để người ta thoáng thấy Ngài qua cái đẹp và sự hài hoà của vũ trụ (x. Kn 13,5 ; Rm 1,19-20). Trong Cựu Ước chúng ta tìm thấy nhiều dấu chỉ vẻ huy hoàng của quyền năng Thiên Chúa khi Ngài thể hiện vinh quang của Ngài nơi những công trình kỳ diệu giữa Dân Được Tuyển Chọn (x. Xh 14 ; 16,10 ; 24,12-18 ; Ds 14,20-23). Trong Tân Ước cái đẹp được tỏ hiện cách tuyệt đối trong sự mạc khải Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô [4] : Đức Kitô chính là sự tỏ hiện trọn vẹn vinh quang Thiên Chúa. Qua việc tôn vinh Chúa Con, vinh quang của Chúa Cha toả sáng và được thông truyền (x. Ga 1,14 ; 8,54 ; 12,28 ; 17,1). Tuy nhiên đây không phải là sự hài hoà về tỷ lệ và hình thức ; “Người vô song tuyệt mỹ giữa thế nhân” (Tv 45[44],3), một cách mầu nhiệm, cũng là người “chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn đáng chúng ta ưa thích” (Is 53,2). Đức Giêsu Kitô cho chúng ta thấy chân lý về tình yêu có thể biến đổi ngay cả mầu nhiệm sự chết đầy đen tối thành ánh sáng phục sinh huy hoàng. Ở đây ánh rạng ngời của vinh quang Thiên Chúa vượt qua tất cả cái đẹp trần gian. Cái đẹp đích thực nhất là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải trọn vẹn chính mình cho chúng ta trong mầu nhiệm Vượt qua.
Cái đẹp của phụng vụ là thành phần của mầu nhiệm này ; đó là một sự biểu hiện tuyệt vời vinh quang của Thiên Chúa và, theo một nghĩa nào đó, là một thoáng của thiên đàng trên trần gian. Chính việc tưởng niệm hy tế cứu độ chứa đựng những nét đặc trưng của vẻ đẹp mà Thầy Giêsu đã cho Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến, khi biến hình trước mắt họ trong cuộc hành trình lên Giêrusalem (x. Mc 9,2). Do đó, cái đẹp không phải là một yếu tố dùng để trang hoàng, nhưng chính là một thành phần thiết yếu của hành động phụng vụ, bởi lẽ nó là một thuộc tính của Thiên Chúa và thuộc tính do Ngài mạc khải. Tất cả những điều đó phải làm cho chúng ta ý thức sự quan tâm cần phải có để hành động phụng vụ được rạng rỡ theo đúng bản chất của nó.
Cử hành Thánh Thể, công trình của “Đức Kitô toàn thể” (christus totus)
Đức Kitô toàn thể nơi đầu và nơi thân mình
36. Chủ thể của cái đẹp nội tại của phụng vụ là chính Đức Kitô phục sinh và được tôn vinh trong Thánh Thần, Người cho Hội Thánh tham dự vào trong hành động của Người.[5] Ở đây sẽ rất hữu ích nhắc lại lời của thánh Augustinô, những lời diễn tả rất hiệu quả tính năng động của đức tin Thánh Thể. Vị thánh cả của thành Hippone, khi nói đặc thù về Mầu nhiệm Thánh Thể, làm nổi rõ cách thế Đức Kitô đồng hoá chúng ta với Người : “Tấm bánh mà anh chị em thấy trên bàn thờ, được thánh hiến nhờ lời Thiên Chúa, là mình Đức Kitô. Bằng những dấu chỉ này Đức Kitô đã muốn trao phó cho chúng ta mình và máu Người, đã đổ ra cho chúng ta để được ơn tha tội. Nếu anh chị em lãnh nhận cách sốt sắng, thì chính anh chị em trở thành điều mà anh chị em đã lãnh nhận”[6]. Do đó, “chúng ta không chỉ trở thành kitô hữu, mà chúng ta trở thành chính Đức Kitô”[7]. Từ đây chúng ta có thể chiêm ngắm hành động nhiệm mầu của Thiên Chúa đã tạo nên sự hợp nhất sâu xa giữa chúng ta và Chúa Giêsu : “Thật sự Đức Kitô không chỉ ở nơi đầu mà không ở nơi thân mình, nhưng Người là nguyên vẹn cả nơi đầu và nơi thân mình”[8].
Thánh Thể và Đức Kitô phục sinh
37. Bởi vì phụng vụ Thánh Thể thiết yếu là hành động của Thiên Chúa gắn kết chúng ta với Chúa Giêsu nhờ Chúa Thánh Thần, cấu trúc cơ bản của nó không thuộc thẩm quyền thay đổi của chúng ta, cũng như không thể chịu sự nhào nặn của trào lưu thời đại. Ở đây cũng nên áp dụng những lời lẽ hết sức minh bạch của thánh Phaolô : “Không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1Cr 3,11). Cũng vị Tông đồ của dân ngoại khi nói về Thánh Thể đã đảm bảo với chúng ta rằng Người không thông truyền cho chúng ta một học thuyết cá nhân, nhưng là điều chính ngài đã lãnh nhận (x. 1Cr 11,23). Cử hành Thánh Thể thật sự bao hàm cả Truyền Thống sống động. Hội Thánh cử hành hy tế Thánh Thể vì vâng theo lệnh truyền của Đức Kitô, bắt nguồn từ kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh và việc trao ban Thánh Thần. Vì thế, cộng đoàn kitô giáo từ lúc khởi đầu hợp nhau bẻ bánh vào Ngày của Chúa. Ngày mà Đức Kitô đã phục sinh từ cõi chết, tức Chúa Nhật, cũng là ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà truyền thống cựu ước xem là khởi đầu của sự sáng tạo. Giờ đây ngày sáng tạo đã trở nên ngày “sáng tạo mới”, ngày chúng ta được giải thoát khi tưởng niệm Đức Kitô khổ nạn và phục sinh.[9]
Nghệ thuật cử hành (ars celebrandi)
38. Các tài liệu của Thượng Hội Đồng Giám Mục thường xuyên khẳng định cần phải tránh chia cắt nghệ thuật cử hành, tức là nghệ thuật cử hành đúng cách, và sự tham dự tràn đầy, tích cực và hữu hiệu của các tín hữu. Cách thức đầu tiên thúc đẩy sự tham dự của Dân Chúa vào Nghi Lễ Thánh là sự cử hành cách xứng hợp chính Nghi Lễ đó. Nghệ thuật cử hành (Ars celebrandi) là điều kiện tốt nhất làm cho sự tham dự được sống động (actuosa participatione).[10] Nghệ thuật cử hành là kết quả của sự trung thành tuân giữ các qui luật phụng vụ trong mọi khía cạnh phong phú của nó ; thật vậy, suốt hai ngàn năm qua cách thức cử hành này đã nâng đỡ đời sống đức tin của mọi tín hữu, những người được kêu gọi tham dự vào việc cử hành với tư cách là Dân Chúa, một hàng tư tế vương giả, một dân tộc thánh thiện (x. 1Pr 2,4-5.9)[11].
Giám mục, nhà phụng vụ tiêu biểu nhất
39. Nếu thật sự tất cả Dân Chúa tham dự vào phụng vụ Thánh Thể, thì những người đã lãnh Bí tích Truyền Chức có nhiệm vụ không thể chối từ trong việc giữ cho nghệ thuật cử hành được đúng đắn. Các Giám mục, linh mục và phó tế, mỗi người theo chức năng của mình, phải xem việc cử hành như bổn phận chính của mình.[12] Trên hết, Giám mục giáo phận : như một người quản lý chính các mầu nhiệm của Thiên Chúa trong Giáo Hội địa phương đã được ủy thác cho ngài, ngài là người hướng dẫn, thúc đẩy, và gìn giữ tất cả đời sống phụng vụ”[13]. Tất cả những điều đó có tính quyết định cho đời sống của Giáo hội địa phương không chỉ vì sự hiệp thông với Giám mục là điều kiện để mọi cử hành trong Địa Phận được hợp pháp, mà còn vì chính ngài là nhà phụng vụ tiêu biểu nhất trong Giáo Phận của ngài.[14] Ngài có bổn phận đảm bảo tính thống nhất và hài hoà trong các cử hành diễn ra trong địa phận của ngài. Do đó, Giám mục phải “chắc chắn rằng các linh mục, phó tế và các kitô hữu giáo dân nắm bắt ngày càng sâu ý nghĩa đích thật của các nghi lễ và các bản văn phụng vụ, và như thế họ đạt tới sự tham dự Thánh Thể tích cực và hữu hiệu”[15]. Cách riêng, tôi kêu gọi phải làm tất cả những gì cần thiết để các cử hành phụng vụ của Giám mục trong nhà thờ chánh tòa được thực hiện trong sự tôn trọng đầy đủ nghệ thuật cử hành, làm sao cho những cử hành này được xem như mẫu mực cho tất cả các nhà thờ trong Địa Phận.[16]
Tôn trọng các sách phụng vụ
và sự phong phú của các dấu chỉ
40. Nhấn mạnh tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành cũng làm sáng tỏ giá trị của các qui luật phụng vụ.[17] Nghệ thuật cử hành phải giúp tăng cường ý thức linh thánh và đẩy mạnh việc sử dụng các hình thức bên ngoài nhằm giáo dục ý thức ấy, ví dụ như sự hài hòa về nghi lễ, phẩm phục phụng vụ, đồ đạc trưng bày và không gian thánh. Cử hành Thánh Thể mang lại nhiều ích lợi khi các linh mục và những người có trách nhiệm về mục vụ phụng vụ dấn thân phổ biến các sách phụng vụ hiện hành và các qui luật tương ứng, bằng cách làm sáng tỏ những sự phong phú cao vời trong Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma và Ordinis Các Bài Đọc trong Thánh Lễ. Nơi các cộng đoàn giáo hội của chúng ta, có lẽ người ta nghĩ rằng đã biết và có thể đánh giá các nguồn tài liệu này, nhưng thường không phải là như vậy. Những bản văn này chứa đựng những kho tàng đã lưu giữ và diễn tả đức tin và kinh nghiệm của Dân Chúa suốt hai ngàn năm lịch sử. Cũng quan trọng như thế, nếu muốn có được một nghệ thuật cử hành đúng đắn, là lưu tâm đến những hình thức ngôn ngữ khác nhau được ứng dụng trong phụng vụ : lời nói và âm nhạc, các cử chỉ và sự thinh lặng, sự di chuyển, màu sắc phụng vụ dành cho phẩm phục. Do chính bản chất của mình phụng vụ có nhiều mức độ diễn đạt khác nhau làm cho nó có khả năng hội nhập trọn vẹn con người. Tính đơn giản của những cử điệu và sự trang nhã của những dấu chỉ thể hiện trong trật tự có sức truyền đạt và tác dụng hơn bất kỳ những gì thêm vào mà không thích hợp. Lưu tâm và trung thành với cấu trúc đặc biệt của nghi lễ vừa diễn tả một sự hiểu biết về bản chất của Thánh Thể như một quà tặng, vừa biểu lộ ý muốn của thừa tác viên đón nhận quà tặng vô giá đó bằng lòng biết ơn đầy vâng phục.
Nghệ thuật nhằm phục vụ cho phụng vụ
41. Mối liên hệ sâu xa giữa cái đẹp và phụng vụ phải làm cho chúng ta lưu tâm đến những cách diễn tả nghệ thuật trong các buổi cử hành.[18] Chắc chắn một trong những yếu tố quan trọng của nghệ thuật thánh là kiến trúc thánh đường,[19] có thể tạo nên sự duy nhất giữa các đồ dùng trong gian cung thánh : bàn thờ, thánh giá chịu nạn, nhà tạm, toà giảng và ghế chủ tế. Ở đây cần phải nhớ rằng mục đích của nghệ thuật thánh là tạo cho thánh đường một không gian thích hợp cho việc cử hành các mầu nhiệm đức tin, đặc biệt là Thánh Thể.[20] Bản chất đúng nghĩa của một ngôi thánh đường kitô giáo được xác định do chính hành động phụng vụ, nghĩa là sự qui tụ của các tín hữu (ecclesia), những viên đá sống động của Đền Thánh (x. 1Pr 2,5).
Nguyên tắc này có giá trị cho tất cả nghệ thuật thánh nói chung, và cách riêng cho hội họa và điêu khắc, trong đó sự mô tả bằng hình tượng tôn giáo phải được hướng đến nhiệm huấn bí tích. Những người có trách nhiệm sắp đặt các tác phẩm nghệ thuật dùng trong phụng vụ của các nghệ sĩ và điêu khắc gia, cần có một sự hiểu biết sâu xa về các tác phẩm mà nghệ thuật thánh đã làm ra trải dài trong lịch sử. Do đó rất cần thiết cho các chủng sinh và linh mục được học về lịch sử nghệ thuật thánh, đặc biệt liên quan đến việc xây cất nơi thờ phượng theo các tiêu chuẩn phụng vụ. Trong tất cả những gì có liên quan đến Thánh Thể người ta phải có thẩm mỹ. Lưu tâm và kính trọng đặc biệt đến phẩm phục, đồ dùng và các bình thánh, làm sao cho nhờ sự sắp đặt hài hòa và trật tự, chúng gìn giữ lòng kính trọng đối với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, biểu lộ sự duy nhất của đức tin và củng cố lòng đạo đức.[21]
Phụng ca
42. Trong nghệ thuật cử hành, phụng ca chiếm vị trí nổi bật.[22] Thánh Augustinô nói trong một bài giảng nổi tiếng “con người mới hát bài ca mới. Hát là biểu hiện của niềm vui và, nếu chúng ta suy nghĩ một chút về việc này, thì hát còn là một biểu hiện của tình yêu”[23]. Dân Chúa họp nhau cử hành phụng vụ hát những lời ca ngợi Chúa. Xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử, Hội Thánh đã và đang sáng tạo âm nhạc và những bài ca tạo nên một gia sản đức tin và tình yêu không thể để mất được. Chắc chắn trong phụng vụ chúng ta không thể nói rằng bài ca nào cũng hay như bài ca nào. Nên tránh những sự ứng khẩu nói chung hoặc đưa ra những loại nhạc không tôn trọng ý nghĩa của phụng vụ. Vì là một yếu tố phụng vụ, bài hát phải hòa nhập vào hình thức của buổi cử hành.[24] Do vậy mọi sự – bản văn, giai điệu, cách trình bày – phải phù hợp với mầu nhiệm được cử hành, với các phần của nghi lễ, và với mùa phụng vụ.[25] Sau hết, mặc dù tôn trọng các khuynh hướng và những truyền thống khác nhau và rất đáng khen, tôi ao ước, theo như các Nghị Phụ thượng hội đồng đã đòi hỏi, rằng nhạc bình ca (chant grégorien) được đánh giá đúng mức,[26] như thánh ca riêng biệt của phụng vụ Rôma.[27]
Cấu trúc cử hành Thánh Thể
43. Sau khi đã gợi lại những yếu tố giàu ý nghĩa của nghệ thuật cử hành nổi lên trong các tài liệu thượng hội đồng, tôi muốn tập trung vào một số phần trong cấu trúc cử hành Thánh Thể, đang cần đến sự quan tâm đặc biệt trong thời đại của chúng ta, nhằm mục đích trung thành với ý định sâu xa canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, trong sự tiếp nối tất cả truyền thống vĩ đại của Hội Thánh.
Sự duy nhất nội tại của hành động phụng vụ
44. Trước hết suy tư về sự duy nhất nội tại của nghi thức thánh lễ là cần thiết. Cả trong giáo lý và trong cách thức cử hành, cần tránh tạo nên ngộ nhận cho rằng hai phần của Thánh Lễ chỉ được đặt kề bên nhau. Phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, cùng với các nghi thức mở đầu và kết thúc, “được nối kết chặt chẽ với nhau đến nỗi thành một hành động duy nhất”[28]. Có một mối liên hệ nội tại giữa Lời Thiên Chúa và Thánh Thể. Từ việc lắng nghe Lời Chúa, đức tin được sinh ra và lớn lên (x. Rm 10,17) ; trong Thánh Thể, Lời-thành-xác-phàm ban chính mình cho chúng ta như lương thực thiêng liêng.[29] Do đó, “từ hai bàn tiệc Lời Chúa và Mình Chúa Kitô, Hội Thánh lãnh nhận và trao cho các tín hữu bánh sự sống”[30]. Vì vậy cần ghi nhớ thường xuyên rằng Lời Chúa, được Hội Thánh đọc và công bố trong phụng vụ, dẫn đến Thánh Thể như là mục đích tự nhiên của mình.
Phụng vụ Lời Chúa
45. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi mong rằng phụng vụ Lời Chúa luôn luôn được chuẩn bị và cử hành cách cẩn thận. Theo đó tôi xin hãy cố gắng hết sức để đảm bảo cho việc công bố Lời Chúa trong phụng vụ được uỷ thác cho những người đã được chuẩn bị chu đáo. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng “khi Thánh Kinh được đọc trong Hội Thánh, chính Thiên Chúa nói với Dân của Ngài, và chính Đức Kitô, hiện diện trong lời của Người, công bố Tin Mừng”[31]. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, có thể thêm vài lời dẫn ngắn để tập trung sự chú ý của các tín hữu. Nếu hiểu cách đúng đắn, lời Chúa phải được lắng nghe và đón nhận trong tinh thần hiệp thông với Hội Thánh và với nhận thức rõ ràng sự duy nhất của nó với Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, lời mà chúng ta công bố và đón nhận là Lời-đã trở thành-xác phàm (x. Ga 1,14) ; Lời đó được nối liền không tách rời với ngôi vị Đức Kitô và với hình thái bí tích của sự hiện diện trường tồn của Người ở giữa chúng ta. Đức Kitô không nói trong quá khứ mà trong hiện tại của chúng ta, cũng như chính Người hiện diện trong hành động phụng vụ. Dựa trên cái nền bí tích của mạc khải kitô giáo,[32] sự hiểu biết và nghiên cứu Lời Chúa cho phép chúng ta yêu mến, cử hành và sống Thánh Thể tốt hơn. Chính nơi đây lời khẳng định “không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”[33] được chứng thực là rất đúng.
Để đạt đến mục tiêu này, các tín hữu cần được giúp đỡ để đánh giá đúng những kho tàng Thánh Kinh chứa đựng trong sách bài đọc nhờ vào những sáng kiến mục vụ, những buổi cử hành Lời Chúa và đọc thánh kinh cầu nguyện (lectio divina). Hơn nữa, cũng không quên thăng tiến những hình thức cầu nguyện đã được truyền thống xác nhận : Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nhất là Kinh Sáng, Kinh Chiều, Kinh Tối và các buổi canh thức. Cầu nguyện bằng thánh vịnh, các bài đọc thánh kinh và các bài đọc theo đại truyền thống được trình bày trong Kinh Thần Vụ có thể làm phát sinh một kinh nghiệm sâu sắc về biến cố Đức Kitô và nhiệm cục cứu độ mà, từ đó, có thể làm chúng ta hiểu biết và tham dự vào Cử Hành Thánh Thể một cách phong phú hơn.[34]
Bài giảng
46. Vì tầm quan trọng của Lời Chúa mà chất lượng của bài giảng cần được thăng tiến. Bài giảng thật sự là “thành phần của hành động phụng vụ”[35] ; có chức năng tạo thuận lợi cho Lời Chúa được hiểu biết và tác dụng sâu rộng hơn trong đời sống người tín hữu. Vì vậy các tác viên có chức thánh “phải chuẩn bị kỹ lưởng bài giảng, dựa trên sự hiểu biết Thánh Kinh tương xứng”[36]. Nên tránh những bài giảng chung chung và trừu tượng. Đặc biệt, tôi kêu gọi các thừa tác viên làm sao cho bài giảng tạo được mối liên hệ giữa Lời Chúa với cử hành bí tích [37] và với đời sống của cộng đoàn, bằng cách ấy Lời Chúa thật sự trở thành nơi nương tựa và nguồn sống của Hội Thánh.[38] Hơn nữa cũng đừng quên mục đích huấn giáo và khích lệ của bài giảng. Suốt năm phụng vụ, sẽ thích hợp nếu trình bày cho các tín hữu những bài giảng theo chủ đề, một cách khôn ngoan và dựa trên sách bài đọc theo chu kỳ ba năm, đề cập đến những chủ đề lớn của đức tin kitô giáo, rút ra từ những gì được Huấn Quyền đề nghị trong bốn “cột trụ” (phần) của Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo và trong Bản Toát Yếu của Sách Giáo Lý (Compendium) vừa phát hành gần đây : tuyên xưng đức tin, cử hành mầu nhiệm kitô giáo, đời sống trong Đức Kitô và kinh nguyện kitô giáo.[39]
Dâng lễ vật
47. Các Nghị Phụ thượng hội đồng cũng đã đề nghị chú ý đến việc dâng lễ vật. Đây không đơn giản nói đến một “phần chuyển tiếp” giữa phụng vụ Lời Chúa và Thánh Thể. Hơn nữa, làm như thế là làm yếu đi ý nghĩa của một nghi lễ duy nhất được tạo nên bởi hai phần có liên quan. Cử chỉ khiêm tốn và đơn giản này thật sự rất có ý nghĩa : trong bánh và rượu chúng ta dâng lên bàn thờ mọi tạo vật đều được Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, đón nhận để được biến đổi và dâng lên Thiên Chúa Cha.[40] Trong cách nhìn này chúng ta cũng đưa lên bàn thờ tất cả những đau khổ và khốn cùng của thế giới, trong niềm xác tín rằng tất cả đều đáng quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Để được sống đúng ý nghĩa của cử chỉ này không cần nhấn mạnh thêm bằng những hình thức rườm rà không thích hợp. Cử chỉ này làm cho chúng ta nhận ra Thiên Chúa mời gọi con người tham dự vào việc hoàn thành công trình của Ngài, và khi làm việc này, lao công của con người có được một ý nghĩa tràn đầy, bởi vì qua cử hành Thánh Thể, lao công của con người được kết hợp với hiến tế cứu độ của Đức Kitô.
Kinh nguyện Thánh Thể
48. Kinh nguyện Thánh Thể là “trung tâm và chóp đỉnh của toàn bộ cử hành”[41]. Tầm quan trọng của nó đáng được nhấn mạnh cách xứng hợp. Các kinh nguyện Thánh Thể khác nhau trong Sách Lễ được lưu truyền cho chúng ta từ Truyền Thống sống động của Hội Thánh và đáng lưu tâm vì sự phong phú vô tận về thần học và thiêng liêng. Cần làm cho các tín hữu lãnh hội được sự phong phú này. Về việc này, Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma giúp chúng ta bằng cách nhắc chúng ta những yếu tố cơ bản của mỗi kinh nguyện Thánh Thể : hành động tạ ơn, tuyên xưng, cầu khẩn Chúa Thánh Thần, tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, thánh hiến, tưởng niệm, dâng hiến, chuyển cầu và vinh tụng ca kết thúc.[42] Đặc biệt, linh đạo Thánh Thể và suy tư thần học sẽ được sáng tỏ nếu chúng ta suy niệm trong kinh nguyện Thánh Thể sự duy nhất sâu xa giữa lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần và lời tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể,[43] trong sự hiệp nhất này “hiến tế do chính Chúa Giêsu thiết lập trong bữa Tiệc Ly được thực hiện”[44]. Thật vậy, Hội Thánh khẩn nài quyền năng Chúa Thánh Thần để lễ vật do tay con người dâng tiến được thánh hoá, nghĩa là trở nên Mình và Máu Đức Kitô, và để Lễ Hy Sinh tinh tuyền được lãnh nhận khi rước lễ trở nên ơn cứu độ cho những người tham dự”[45].
Trao ban bình an
49. Thánh Thể tự bản chất là một bí tích bình an. Trong Thánh Lễ, mầu nhiệm Thánh Thể diễn tả cách đặc biệt chiều kích này trong việc trao ban bình an. Chắc chắn dấu chỉ này có giá trị to lớn (x. Ga 14,27). Trong thời đại của chúng ta, đầy sợ hãi và xung đột, cử chỉ này đã trở nên quan trọng đặc biệt, khi Hội Thánh không ngừng ý thức trách nhiệm của mình là cầu xin ơn bình an và hợp nhất cho chính mình và cho toàn thể gia đình nhân loại. Hòa bình là một khát vọng không thể tan biến trong mỗi trái tim. Hội Thánh trở thành tiếng nói kêu gọi hòa bình và hòa giải dâng lên từ tâm hồn của mỗi người thiện tâm, hướng tiếng đó lên Đấng là “bình an của chúng ta” (Ep 2,14) và có thể hoà giải các dân tộc và con người, ngay cả khi những nỗ lực của con người thất bại. Từ tất cả những điều này, chúng ta hiểu xúc cảm được nghiệm thấy khi thực hiện dấu chỉ ban bình an trong buổi cử hành phụng vụ. Dù vậy, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng lưu ý cần điều tiết khi thực hành cử chỉ này, vì rất thường mang những hình thức thái quá và làm cho bầu khí cộng đoàn loãng đi trước lúc hiệp lễ. Nên nhớ rằng không có gì mất mát nếu bình an được trao ban bằng một cử chỉ thanh tao cần thiết để duy trì bầu khí thích hợp cho buổi cử hành, ví dụ, giới hạn việc trao ban bình an cho những người ở gần nhất.[46]
Trao và nhận Thánh Thể
50. Một khoảng thời gian khác trong buổi cử hành cần được nhắc đến là trao và nhận Thánh Thể. Tôi kêu gọi mọi người, cách riêng các thừa tác viên có chức thánh và những ai, sau khi đã được chuẩn bị hoặc trong trường hợp cần thiết thật sự, được ban tác vụ trao Mình Máu Thánh, cố gắng hết sức để hành động đơn sơ này nói lên tầm quan trọng của nó là sự gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu trong bí tích. Tôi cũng muốn nhắc đến những tài liệu được xuất bản gần đây liên quan đến những hướng dẫn thực hành đúng hành động này.[47] Tất cả các cộng đoàn tín hữu đang trung thành giữ các qui luật này, nhìn thấy nơi những qui luật này sự biểu lộ đức tin và lòng mến mà tất cả chúng ta phải có đối với bí tích cực trọng này. Hơn nữa, không nên bỏ qua những phút cám ơn rất quý báu sau hiệp lễ : ngoài việc hát một bài thánh ca thích hợp, cũng rất ích lợi cho cộng đoàn cùng thinh lặng.[48]
Về vấn đề này, tôi muốn lưu ý một vấn đề mục vụ được tranh cãi gần đây. Tôi đang đề cập đến sự kiện là vào những dịp nào đó – như lễ cưới, lễ an táng hay những dịp tương tự – ngoài các tín hữu thực hành còn có những người đã từ lâu không tham dự Thánh Lễ hoặc đang sống trong tình trạng không cho phép họ rước lễ. Vào những dịp khác các tín hữu kitô khác hoặc thuộc tôn giáo khác cũng hiện diện. Hoàn cảnh tương tự cũng có thể xảy ra tại các nhà thờ có nhiều khách thăm viếng, đặc biệt trong các nơi du lịch. Trong những trường hợp này, cần tìm một cách thức ngắn gọn và rõ ràng để nhắc những người hiện diện về ý nghĩa của sự hiệp thông bí tích và những điều kiện cần có để rước lễ. Bất kỳ nơi đâu không thể chắc chắn rằng người ta hiểu được ý nghĩa của Thánh Thể cách đúng đắn, nên thay thế việc cử hành Thánh Thể bằng một cử hành Lời Chúa.[49]
Lời giải tán : “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”
(Ite, missa est)
51. Sau hết, tôi muốn nhận định ngắn gọn về những gì các Nghị phụ thượng hội đồng đã nói về lời giải tán sau cử hành Thánh Thể. Sau phép lành, phó tế hoặc linh mục giải tán dân chúng bằng những lời : “Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em đi bình an”. Những lời này giúp chúng ta hiểu được mối liên hệ giữa Thánh Lễ vừa được cử hành và sứ mệnh của các kitô hữu trong thế giới. Thời xưa “missa” đơn giản có nghĩa là “giải tán”. Tuy nhiên khi được sử dụng trong kitô giáo nó dần dần có ý nghĩa sâu xa hơn. Từ “giải tán” ám chỉ một “sứ mệnh”. Những lời này diễn tả cách xúc tích sứ mệnh truyền giáo của Hội Thánh. Dân Chúa có thể được trợ giúp để hiểu được rõ ràng hơn chiều kích chính yếu của đời sống Hội Thánh, nhận lời giải tán như một điểm khởi đầu. Trong bối cảnh này, sáng tác những bản văn mới cho lời nguyện trên dân chúng và phép lành cuối cùng, được chấp thuận hợp lệ, là rất có ích nhằm làm cho sự liên kết này được rõ ràng.[50]
Sự tham dự tích cực (actuosa participatio)
Sự tham dự đích thực
52. Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh một cách thích đáng sự tham dự tích cực, ý thức và hữu hiệu của toàn thể Dân Chúa trong cử hành Thánh Thể.[51] Chắc chắn, sự canh tân đươc thực hiện trong những thập kỷ qua đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện ước muốn của các Nghị phụ công đồng. Tuy nhiên chúng ta không được bỏ qua sự kiện là đôi khi xảy ra một vài hiểu nhầm ý nghĩa chính xác của sự tham dự. Cần giải thích rõ rằng từ “tham dự” không có ý nói đến một họat động đơn thuần bên ngoài trong buổi cử hành. Thật ra, sự tham dự tích cực theo cách gọi của Công đồng phải được hiểu bằng những thuật ngữ chuẩn xác hơn, dựa trên nền tảng một hiểu biết rộng lớn hơn về mầu nhiệm đang được cử hành và mối liên hệ của nó với đời sống hàng ngày. Hiến chế của Công đồng về Phụng Vụ Thánh khuyến khích các tín hữu tham dự vào phụng vụ Thánh Thể không phải “như những khách bàng quan, câm lặng”, mà như những người tham dự “hành động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động”[52]. Giá trị của lời thúc giục này chưa hề suy giảm. Công đồng còn nói rằng các tín hữu “được đào tạo bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa ; họ tạ ơn chúa ; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình ; và ngày qua ngày, nhờ Đức Kitô Đấng Trung Gian, họ được cuốn hút vào trong tình liên kết với Thiên Chúa và với nhau”[53].
Sự tham dự và chức tư tế thừa tác
53. Cái đẹp và sự hài hoà của phụng vụ được diễn tả đầy ý nghĩa trong trật tự mà theo đó mọi người được mời gọi tham dự cách tích cực. Điều này bao hàm sự hiểu biết về các vai trò có tính phẩm trật phân biệt nhau trong buổi cử hành. Cũng hữu ích khi nhắc lại rằng sự tham dự tích cực tự nó không tương đương với việc thực thi một tác vụ chuyên biệt nào. Sự tham dự tích cực của người tín hữu sẽ không ích lợi gì nếu như lẫn lộn vì không thể phân biệt được trong sự hiệp thông Hội Thánh các chức năng khác nhau thuộc riêng từng người.[54] Cần làm rõ những chức năng chuyên biệt của linh mục. Chỉ một mình ngài, mà không ai khác, như truyền thống Hội Thánh đã làm chứng, chủ tọa toàn bộ cử hành Thánh Thể, từ lời chào đầu lễ đến phép lành cuối lễ. Nhờ việc lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh, ngài đại diện Đức Giêsu Kitô, là Đầu của Hội Thánh, và một cách đặc biệt, cũng là chính Hội Thánh.[55] Mọi việc cử hành Thánh Thể đều thật sự do Giám mục hướng dẫn, “hoặc đích thân hoặc qua các linh mục là cộng sự viên của ngài”[56]. Giám mục sẽ được các phó tế giúp đỡ ; các phó tế có những phần vụ đặc biệt trong buổi cử hành : chuẩn bị bàn thờ, phụ giúp các linh mục, công bố Tin Mừng, đôi khi giảng, xướng các ý của lời nguyện tín hữu, và cho các tín hữu rước lễ.[57] Cùng với những tác vụ có liên quan đến Bí tích Truyền Chức, còn có những tác vụ khác giúp trong phụng vụ có thể được đảm nhiệm rất đáng khen do các tu sĩ và các giáo dân được huấn luyện cách thích hợp.[58]
Cử hành Thánh Thể và hội nhập văn hoá
54. Dựa trên những tuyên bố căn bản của Công đồng Vaticanô II, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham dự tích cực của các tín hữu trong Hy Tế Thánh Thể. Để thúc đẩy sự tham dự này, có thể dự liệu những thích nghi cho các bối cảnh và văn hóa khác nhau.[59] Sự kiện đã có một vài lạm dụng vẫn không làm giảm giá trị của nguyên tắc rất hiển nhiên này, là điều phải được duy trì phù hợp với các nhu cầu thực tế của Hội Thánh sống và cử hành cùng một mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô trong những bối cảnh văn hóa khác nhau. Trong mầu nhiệm nhập thể, Đức Giêsu Kitô, được người nữ sinh ra và làm người trọn vẹn (x. Gl 4,4), có liên hệ trực tiếp không những với các ước vọng trong Cựu Ước, mà còn với những trông đợi của tất cả mọi dân tộc. Do đó Người tỏ cho thấy rằng Thiên Chúa ao ước gặp chúng ta trong hoàn cảnh cụ thể của chúng ta. Vì thế sẽ có ích cho các tín hữu tham dự hiệu quả hơn vào các mầu nhiệm thánh nhờ tiến trình hội nhập văn hóa trong lãnh vực cử hành Thánh Thể, phải lưu tâm đến những khả thể thích ứng được trình bày trong Qui Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma,[60] được giải thích theo những tiêu chuẩn được xác định bởi Huấn thị thứ Tư của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích về hội nhập văn hóa Varietates Legitimae ngày 25 tháng 01 năm 1994,[61] và những hướng dẫn do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trình bày trong các tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục Giáo Hội tại Châu Phi, Giáo Hội tại Châu Mỹ, Giáo Hội tại Châu Á, Giáo Hội tại Châu Đại Dương và Giáo Hội tại Châu Âu.[62] Đến đây tôi kêu gọi các Hội Đồng Giám Mục nỗ lực duy trì sự quân bằng giữa các tiêu chuẩn và hướng dẫn đã được công bố với những thích ứng mới,[63] luôn luôn thống nhất với Tông Toà.
Những điều kiện cá nhân để có được sự tham dự tích cực
55. Khi cân nhắc sự tham dự tích cực của các tín hữu trong phụng vụ, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng thảo luận các điều kiện riêng cần thiết để sự tham dự có hiệu quả đối với từng cá nhân.[64] Một trong những điều kiện này chắc chắn là tinh thần hoán cải thường xuyên, là đặc điểm đời sống của tất cả các kitô hữu. Khó mà hy vọng có được sự tham dự tích cực trong phụng vụ Thánh Thể, nếu như chỉ tiếp cận ở bề mặt, mà không hề rà xét đời sống. Sự điều chỉnh nội tâm có thể được nâng đỡ nhờ hồi tưởng và thinh lặng ít nhất đôi phút trước khi phụng vụ bắt đầu, nhờ chay tịnh và, nếu cần thiết, nhờ Bí tích Hoà Giải. Một tâm hồn hoà giải với Thiên Chúa mới có thể tham dự phụng vụ đúng nghĩa. Các tín hữu cần được nhắc bảo rằng không thể có được sự tham dự tích cực vào các mầu nhiệm thánh nếu không có kèm theo một nỗ lực tham dự tích cực vào đời sống của toàn thể Hội Thánh, bao gồm dấn thân truyền giáo đem tình yêu của Đức Kitô vào đời sống xã hội.
Rõ ràng, sự tham dự toàn vẹn vào Bí tích Thánh Thể chỉ xảy ra khi các tín hữu đích thân tiến đến bàn thờ rước lễ.[65] Tuy nhiên cần lưu ý điều này là có những tín hữu cho rằng chỉ đơn giản hiện diện trong nhà thờ suốt buổi cử hành phụng vụ là tự động có quyền hay thậm chí bó buộc đến bàn thờ rước lễ. Ngay cả trong những trường hợp không thể rước lễ, việc tham dự Thánh Lễ vẫn là điều cần thiết, quan trọng, có ý nghĩa và sinh hiệu quả. Trong những trường hợp như thế, ấp ủ khao khát hiệp thông trọn vẹn với Đức Kitô qua việc thực hành rước lễ thiêng liêng cũng đem lại nhiều ơn ích, như Đức Gioan Phaolô II từng ca ngợi [66] và được các thánh, những bậc thầy về đời sống thiêng liêng, đề nghị.[67]
Sự tham dự của các kitô hữu không phải công giáo
56. Cùng với chủ đề tham dự Thánh Thể, chúng ta không thể không bàn đến vần đề các kitô hữu thuộc các Giáo hội và những Cộng đoàn giáo hội không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công Giáo. Về điều này, phải nói rằng mối liên kết nội tại giữa Thánh Thể và sự hợp nhất của Hội Thánh thúc đẩy chúng ta trông chờ ngày mà chúng ta có thể cử hành Thánh Thể chung với tất cả những người tin vào Đức Kitô, và bằng cách này có thể diễn tả một cách rõ ràng sự hợp nhất trọn vẹn mà Chúa Giêsu mong muốn cho các môn đệ của Người (x. Ga 17,21). Mặt khác, sự kính trọng cần phải có đối với Bí tích Mình và Máu Đức Kitô không cho phép chúng ta dùng bí tích này như một “phương tiện” đơn thuần để đạt đến sự hiệp nhất mà không hề có sự suy xét nào.[68] Thật ra Thánh Thể không chỉ diễn tả sự hợp nhất cá nhân với Đức Giêsu Kitô, mà còn bao hàm sự hợp nhất trọn vẹn với Hội Thánh. Đó là lý do tại sao, cho dù đáng buồn nhưng không phải không có hy vọng, chúng ta kêu gọi các kitô hữu không phải công giáo hiểu và tôn trọng xác tín của chúng ta, xác tín được đặt trên nền tảng Thánh Kinh và Truyền Thống. Chúng ta tin rằng sự hiệp thông Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo hội được liên kết chặt chẽ đến nỗi các kitô hữu không công giáo không thể lãnh nhận sự hiệp thông Thánh Thể khi chưa có được sự hiệp thông Giáo hội. Việc đồng tế với những thừa tác viên của các Giáo hội hay các Cộng đoàn giáo hội không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công Giáo lại càng mất đi ý nghĩa. Tuy vậy, vì ơn cứu độ của họ, các kitô hữu không công giáo xét như cá nhân vẫn được chấp nhận cho lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, Hoà Giải và Xức Dầu Bệnh Nhân. Nhưng điều này chỉ được phép trong những hoàn cảnh ngọai lệ và đặc biệt, với những điều kiện nào đó rõ rệt.[69] Những điều kiện này đã được chỉ rõ trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo [70] và trong Bản Toát Yếu của Sách này.[71] Mọi người đều bị bó buộc tuân giữ trung thành những qui luật này.
Tham dự qua các phương tiện truyền thông
57. Nhờ vào sự phát triển đáng kể của các phương tiện truyền thông, từ ngữ “tham dự” trong những thập niên gần đây đã mang một nghĩa rộng hơn. Tất cả chúng ta đều lấy làm vui mừng vì truyền thông đã mở ra những khả năng mới cho việc cử hành Thánh Thể.[72] Điều này đòi hỏi một chuẩn bị đặc biệt và một ý thức trách nhiệm vững vàng nơi những người hoạt động mục vụ thuộc lãnh vực này. Khi Thánh Lễ được truyền hình, là nhắm đến việc đưa ra một gương mẫu, do đó cần có sự chú ý đặc biệt để bảo đảm rằng việc cử hành tôn trọng các qui chế phụng vụ hiện hành, thêm vào đó là Thánh Lễ được diễn ra tại những địa điểm thích hợp và được trang bị tốt.
Sau hết, về giá trị của việc tham dự Thánh Lễ bằng phương tiện truyền thông, những người nghe truyền thanh hay xem truyền hình nên biết rằng, theo những hoàn cảnh bình thường, họ không chu toàn luật buộc tham dự Thánh Lễ. Những hình ảnh sống động có thể cho thấy đúng sự kiện, nhưng không thật sự tái diễn sự kiện ấy.[73] Trong khi việc những người cao tuổi và bệnh nhân tham dự Thánh Lễ qua truyền thanh và truyền hình là một điều rất đáng khen, không thể nói như vậy đối với những người nghĩ rằng các phương tiện truyền thông miễn cho họ khỏi đến nhà thờ và thông phần với cộng đoàn Thánh Thể giữa lòng Hội Thánh sống động.
Sự tham dự tích cực của các bệnh nhân
58. Khi nghĩ đến những người vì lý do sức khỏe hay tuổi tác không thể đi đến các nơi thờ tự, tôi mong mỏi toàn cộng đoàn Hội Thánh lưu tâm đến tầm quan trọng mục vụ này là nâng đỡ tinh thần cho các bệnh nhân, cả những người đang sống tại gia lẫn trong bệnh viện. Thượng Hội Đồng Giám Mục thường nhắc đến hoàn cảnh của họ. Những anh chị em này cần thường xuyên có cơ hội hiệp thông bí tích. Nhờ đó mối liên kết của họ với Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh được củng cố, và họ cảm thấy hội nhập đầy đủ vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh bằng việc dâng hiến những đau khổ của họ kết hợp với hy lễ của Chúa chúng ta. Cần quan tâm đặc biệt đến người khuyết tật. Nếu điều kiện của họ cho phép, cộng đoàn kitô hữu nên giúp họ đến các nơi thờ tự. Việc xây cất nên được thiết kế có lối đi cho người khuyết tật. Cuối cùng, bất cứ khi nào có thể, nên cho những người thiểu năng thần kinh được hiệp thông bí tích, nếu họ đã lãnh Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức : họ rước lễ trong đức tin của gia đình hay của cộng đoàn đồng hành với họ.[74]
Chăm sóc các tù nhân
59. Truyền thống thiêng liêng của Hội Thánh, dựa trên chính lời của Đức Kitô (x. Mt 25,36), đã định rõ việc thăm viếng tù nhân là một trong các mối thương người về phần xác. Các tù nhân rất cần được Chúa Giêsu Thánh Thể viếng thăm cách đặc biệt. Cảm nghiệm cộng đoàn Hội Thánh gần gũi, thông phần vào Bí tích Thánh Thể và rước lễ trong thời điểm khó khăn và đau khổ này chắc chắn có thể góp phần làm thăng tiến cuộc hành trình đức tin và phục hồi đời sống xã hội trọn vẹn của một tù nhân. Nhấn mạnh đề nghị của Thượng Hội Đồng, tôi yêu cầu các Giáo Phận hãy làm bất cứ điều gì có thể để sự chăm sóc thiêng liêng cho các tù nhân có được những trợ giúp mục vụ đầy đủ.[75]
Những người di cư và sự tham dự Thánh Thể
60. Hướng đến những người vì nhiều lý do khác nhau buộc phải rời khỏi quê hương, Thượng Hội Đồng đặc biệt biết ơn những người dấn thân chăm sóc mục vụ cho những người di cư. Cần đặc biệt chú ý đến các di dân thuộc các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương ; cùng với việc ở xa nhà, họ cũng phải đương đầu với khó khăn này là không thể tham dự phụng vụ Thánh Thể theo nghi lễ của họ. Vì thế, bất kỳ nơi nào có thể, họ nên được các linh mục thuộc nghi lễ của họ phục vụ. Trong mọi trường hợp, tôi xin các Giám mục đón tiếp những anh chị em này với tình yêu của Đức Kitô. Những mối liên lạc giữa các tín hữu thuộc những nghi lễ khác nhau có thể là một nguồn làm phong phú cho nhau. Cách riêng tôi đang nghĩ đến lợi ích có thể có, đặc biệt cho các giáo sĩ, nhờ hiểu được các truyền thống khác nhau.[76]
Những cuộc đồng tế lớn
61. Thượng Hội Đồng đã xem xét phẩm chất việc tham dự trong các cử hành có qui mô lớn được tổ chức vào những dịp đặc biệt và bao gồm không chỉ một số đông đảo giáo dân, mà còn nhiều linh mục đồng tế.[77] Một mặt, dễ dàng đánh giá cao tầm quan trọng của những thời điểm này, đặc biệt khi chính Giám mục cử hành, xung quanh là linh mục đoàn và các phó tế. Mặt khác, trong những trường hợp như thế không phải luôn luôn dễ dàng diễn tả rõ ràng sự hợp nhất của linh mục đoàn, cách riêng khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể và cho rước lễ. Cần phải cố gắng để những cuộc đồng tế lớn không bị phân tán. Điều này có thể làm được bằng sự phối hợp và sắp xếp nơi thờ tự để các linh mục và giáo dân thật sự có thể tham dự đầy đủ. Tuy nhiên, phải luôn ghi nhớ rằng ở đây chúng ta đang nói đến những cuộc đồng tế đặc biệt, giới hạn vào những hoàn cảnh ngoại thường.
Tiếng Latinh
62. Không một nhận xét nào trên đây gây nghi ngờ về tầm quan trọng của những phụng vụ có qui mô lớn. Ở đây một cách đặc biệt tôi đang nghĩ đến những cuộc cử hành qui tụ có tính quốc tế, mà ngày nay được tổ chức thường xuyên hơn. Những dịp này phải được đánh giá cao. Để diễn tả cách rõ ràng hơn sự hiệp nhất và tính phổ quát của Hội Thánh, tôi tán thành đề nghị của Thượng Hội Đồng Giám Mục, phù hợp với những hướng dẫn của Công đồng Vaticanô II [78] rằng, ngoại trừ các bài đọc, bài giảng và lời nguyện tín hữu, những buổi phụng vụ như thế có thể được cử hành bằng tiếng Latinh. Tương tự, những kinh được biết đến nhiều trong truyền thống của Hội Thánh [79] nên được đọc bằng tiếng Latinh và, nếu có thể, cũng nên hát một số bài bình ca (grégorien) được tuyển lựa. Nói chung, tôi đề nghị các linh mục tương lai, từ khi ở trong chủng viện, được chuẩn bị để hiểu và cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Latinh, và cũng sử dụng các bản văn Latinh và thực hành nhạc bình ca grégorien ; chúng ta cũng không quên rằng các tín hữu có thể được hướng dẫn đọc nhiều kinh thông thường bằng tiếng Latinh, và cũng có thể hát một phần phụng vụ theo bình ca grégorien.[80]
Các cử hành Thánh Thể theo nhóm nhỏ
63. Thêm một hoàn cảnh rất khác biệt là khi, để giúp cho việc tham dự ý thức, tích cực và hiệu quả hơn, một số hoàn cảnh mục vụ đòi hỏi có những cuộc cử hành dành cho nhóm nhỏ. Trong khi chấp nhận phương pháp này có giá trị đào tạo, phải xác định rằng những cuộc cử hành như thế phải hoà hợp với toàn bộ hoạt động mục vụ của Giáo Phận. Những cuộc cử hành này sẽ thật sự đánh mất giá trị huấn giáo nếu làm cho người ta cảm thấy chúng đi ngược, hay đi song song với đời sống của Giáo hội địa phương. Về việc này, Thượng Hội Đồng nêu ra một số tiêu chuẩn cần thiết : các nhóm nhỏ phải giúp hợp nhất, chứ không chia cắt cộng đoàn ; điều đó phải được thể hiện trong thực tế cụ thể ; những nhóm nhỏ này phải thúc đẩy việc tham dự hiệu quả của cả cộng đoàn, và gìn giữ được càng nhiều càng tốt sự thống nhất về đời sống phụng vụ trong các gia đình.[81]
Sự tham dự nội tâm vào việc cử hành
Giáo lý nhiệm huấn
64. Truyền thống phụng vụ cao cả của Hội Thánh dạy chúng ta rằng sự tham dự hiệu quả trong phụng vụ đòi hỏi con người phải thích ứng với mầu nhiệm đang được cử hành, dâng hiến chính đời sống mình cho Thiên Chúa trong sự hợp nhất với hy lễ của Đức Kitô nhằm cứu độ tất cả thế giới. Vì lý do này, Thượng Hội Đồng Giám Mục yêu cầu các tín hữu được trợ giúp để chuẩn bị nội tâm tương xứng với các cử chỉ và lời nói của họ. Nếu thiếu chuẩn bị nội tâm, thì dù cho có được sắp đặt và thực hiện cẩn thận thế nào đi nữa, các buổi phụng vụ của chúng ta đều có nguy cơ rơi vào một loại chủ nghĩa nghi thức nào đó. Do đó nhu cầu giáo dục đức tin vào Bí tích Thánh Thể có thể làm cho tự bản thân các tín hữu có khả năng sống những gì họ cử hành. Cần đến những phương pháp đào tạo nào, trước tầm quan trọng của sự tham dự cá nhân và ý thức này ? Về việc này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhất trí trình bày phương pháp nhiệm huấn cho việc huấn giáo, phương pháp này có thể hướng dẫn các tín hữu hiểu các mầu nhiệm đang được cử hành một cách sâu sắc hơn.[82] Đặc biệt, trước mối liên hệ giữa nghệ thuật cử hành và tham dự tích cực, trước hết phải nói rằng “bài giáo lý hay nhất về Bí tích Thánh Thể là chính Bí tích Thánh Thể, khi được cử hành một cách tốt đẹp”[83]. Tự bản chất, phụng vụ có thể có hiệu quả về mặt giáo dục trong khi giúp các tín hữu tiến sâu hơn vào mầu nhiệm đang được cử hành. Đó là lý do tại sao, theo truyền thống cổ xưa nhất của Hội Thánh, việc đào tạo kitô giáo luôn luôn có đặc tính cảm nghiệm. Trong khi không coi nhẹ việc học hỏi nội dung đức tin một cách có hệ thống, việc đào tạo tập trung trên việc gặp gỡ sống động và đầy thuyết phục với Đức Kitô, như đã được các chứng nhân đích thực công bố. Trước hết và trên hết chính vị chứng nhân dẫn đưa người khác đến với các mầu nhiệm. Theo lẽ tự nhiên, việc gặp gỡ đầu tiên này đạt đến chiều sâu nhờ huấn giáo và dẫn lên đến tận nguồn gốc và chóp đỉnh của nó trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể. Cấu trúc căn bản giúp hấp thụ kinh nghiệm kitô giáo này đòi hỏi một tiến trình nhiệm huấn luôn luôn gắn liền với ba yếu tố sau :
a) Giáo lý nhiệm huấn giải thích các nghi lễ trong ánh sáng của các biến cố cứu độ, phù hợp với truyền thống sống động của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể, trong sự phong phú vô tận của nó, luôn quy chiếu vào lịch sử cứu độ. Trong Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta thực sự cử hành trọng tâm thâu kết mọi sự (x. Ep 1,10). Từ ban đầu, cộng đoàn Kitô giáo đã giải thích các sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu, và đặc biệt Mầu nhiệm Vượt qua, trong tương quan với toàn bộ lịch sử Cựu Ước.
b) Giáo lý nhiệm huấn cũng phải quan tâm đến việc trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi lễ. Điều này đặc biệt quan trọng cho thời đại kỹ thuật cao như thời đại của chúng ta, một thời đại có nguy cơ đánh mất khả năng cảm kích các dấu chỉ và biểu tượng. Hơn cả việc truyền đạt thông tin, giáo lý nhiệm huấn phải có khả năng làm cho các tín hữu nhạy cảm hơn đối với ngôn ngữ các dấu chỉ và cử chỉ mà, cùng với lời đọc, làm nên nghi lễ.
c) Cuối cùng, giáo lý nhiệm huấn phải quan tâm diễn tả tầm quan trọng của nghi lễ đối với đời sống kitô giáo trong tất cả mọi chiều kích của nó – việc làm và trách nhiệm, tư tưởng và cảm xúc, hoạt động và nghỉ ngơi. Giáo lý nhiệm huấn có một phần việc là làm sao nêu bật được mối quan hệ giữa các mầu nhiệm được cử hành trong các nghi lễ với trách nhiệm truyền giáo của các tín hữu. Nhiệm huấn đạt đến kết quả hoàn thiện khi gây được ý thức rằng đời sống của con người đang được biến đổi dần bởi các mầu nhiệm được cử hành. Hơn nữa, mục đích của tất cả việc giáo dục kitô giáo là huấn luyện cho người tín hữu có một đức tin trưởng thành, một đức tin có thể làm cho họ thành một “tạo vật mới”, có khả năng làm chứng trong môi trường xung quanh về niềm hy vọng kitô giáo đã thôi thúc họ.
Nếu muốn thực hiện thành công công việc giáo dục này trong các cộng đoàn giáo hội, những người có trách nhiệm đào tạo phải được chuẩn bị cách tương xứng. Thật vậy, toàn thể Dân Chúa phải cảm thấy mình có trách nhiệm với công cuộc đào tạo này. Mỗi cộng đoàn kitô được kêu gọi trở thành địa chỉ nơi mà người ta có thể học biết các mầu nhiệm được cử hành trong đức tin. Về điều này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng yêu cầu sự dấn thân nhiều hơn của các cộng đoàn sống đời thánh hiến, các phong trào và các nhóm mà, nhờ vào đặc sủng của mình, có thể tạo nên sức bật mới cho việc đào tạo kitô giáo.[84] Cũng trong thời đại của chúng ta, Chúa Thánh Thần tự do tuôn đổ các ân huệ của Ngài để nâng đỡ việc tông đồ truyền giáo của Hội Thánh, có trách nhiệm loan truyền đức tin và giáo dục đức tin đến mức độ trưởng thành.[85]
Lòng tôn kính đối với Bí tích Thánh Thể
65. Một dấu hiệu thuyết phục cho thấy hiệu quả của huấn giáo về Thánh Thể chắc chắn là cảm thức ngày càng tăng về mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta. Điều này có thể được diễn tả qua những dấu chỉ cụ thể bên ngoài biểu lộ lòng tôn kính đối với Bí tích Thánh Thể mà tiến trình nhiệm huấn đã in sâu vào các tín hữu.[86] Cách chung tôi đang nghĩ tới tầm quan trọng của các cử chỉ và thái độ, như là quì gối trong những phần chính của kinh nguyện Thánh Thể. Giữa các dấu chỉ đa dạng phù hợp với quy chế được sử dụng trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, mọi người phải cảm nghiệm và biểu lộ được ý thức rằng trong mỗi buổi cử hành chúng ta đứng trước vẻ uy phong vô biên của Thiên Chúa, Đấng đến với chúng ta cách khiêm nhu trong các dấu chỉ bí tích.
Sự thờ phượng và lòng sùng kính Thánh Thể
Mối liên hệ nội tại giữa cử hành và thờ phượng
66. Một trong những giây phút đánh động nhất của Thượng Hội Đồng là khi chúng tôi họp nhau tại Đền Thờ Thánh Phêrô để chầu Thánh Thể cùng với đông đảo các tín hữu. Trong hành động cầu nguyện này, và không chỉ bằng lời, sự họp nhau của các Giám mục đã nói lên mối liên hệ nội tại giữa cử hành Thánh Thể và chầu Thánh Thể. Khía cạnh đầy ý nghĩa này trong đức tin của Hội Thánh được đánh giá ngày càng cao, điều đó là một phần quan trọng trong kinh nghiệm của chúng tôi ở những năm tiếp theo sau cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II. Trong những giai đoạn đầu của cuộc canh tân, mối liên hệ cố hữu giữa Thánh Lễ và chầu Bí Tích Cực Thánh đã không phải lúc nào cũng được hiểu rõ đầy đủ. Ví dụ, trong thời gian đó đã có sự phản đối rất phổ biến cho rằng bánh Thánh Thể không phải để ngắm nhìn, nhưng để ăn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm cầu nguyện của Hội Thánh soi sáng, sự chia đôi như vậy là sai lầm. Như thánh Augustinô đã nói : “nemo autem illam carnem manducat, nisi prius adoraverit ; peccemus non adorando – Không ai ăn thịt này mà trước đó đã không thờ lạy ; nếu không thờ lạy chúng ta sẽ có tội”[87]. Trong Bí tích Thánh Thể, Con Thiên Chúa đến thăm chúng ta và khao khát trở nên một với chúng ta ; chầu Thánh Thể đơn giản là hiệu quả tự nhiên của cử hành Thánh Thể, và chính Thánh Lễ là hành vi thờ phượng tối cao của Hội Thánh.[88] Rước lễ là thờ lạy Đấng chúng ta đón nhận. Duy chỉ bằng cách này chúng ta trở nên một với Người, và một cách nào đó được ban cho nếm hưởng trước vẻ đẹp của phụng vụ thiên quốc. Hành động thờ lạy ngoài Thánh Lễ kéo dài và làm sâu sắc thêm tất cả những gì diễn ra trong chính cử hành Thánh Thể. Thật vậy, “một sự tiếp nhận chân thật và sâu sắc chỉ có thể chín chắn trong việc thờ lạy. Và chính sự gặp gỡ cá nhân với Chúa củng cố sứ vụ xã hội hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể, một bí tích cố phá vỡ không chỉ bức tường ngăn cách Chúa với chính chúng ta, mà còn, và đặc biệt là những bức tường ngăn cách chúng ta với nhau”[89].
Thói quen chầu Thánh Thể
67. Do đó, cùng với Thượng Hội Đồng, tôi tha thiết kêu gọi các vị mục tử của Hội Thánh và Dân Chúa hãy thực hành chầu Thánh Thể, vừa chầu riêng vừa chầu chung trong cộng đoàn.[90] Nhiều ơn ích sẽ được phát sinh nhờ vào việc dạy giáo lý cách đúng đắn giải thích được tầm quan trọng của việc thờ phượng này, một hành động làm cho các tín hữu có khả năng cảm nghiệm việc cử hành phụng vụ một cách trọn vẹn và hiệu quả hơn. Bất cứ nơi nào có thể, đặc biệt trong những vùng tập trung dân cư, thiết lập những nhà thờ hoặc nguyện đường dành riêng cho việc chầu Thánh Thể là điều thích đáng. Tôi cũng đề nghị rằng các trẻ em, trong thời gian học giáo lý và cách riêng khi đang chuẩn bị rước lễ lần đầu, được dạy về ý nghĩa và nét đẹp của những giây phút ở bên Chúa Giêsu, và được giúp đỡ để vun trồng tâm tình ngưỡng mộ trước sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể.
Ở đây tôi muốn diễn tả sự ngưỡng mộ và nâng đỡ tất cả các Tu Hội Sống Đời Thánh Hiến đã có các thành viên dâng một phần thời gian đầy ý nghĩa để chầu Thánh Thể. Bằng cách này họ nêu lên một mẫu gương về đời sống được nhào nặn bởi sự hiện diện thật của Chúa. Tôi cũng muốn động viên các hiệp hội dành cho các tín hữu và các đoàn thể dấn thân đặc biệt cho việc chầu Thánh Thể ; họ phục vụ như là men chiêm niệm cho toàn thể Hội Thánh và như một lời kêu gọi các cá nhân và cộng đoàn hãy đặt Đức Kitô ở trung tâm cuộc đời họ.
Những hình thức sùng kính Thánh Thể
68. Mối liên hệ cá nhân mà từng người tín hữu thiết lập với Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể hướng họ ra khỏi chính mình để đạt đến sự hiệp thông toàn vẹn của Hội Thánh và nuôi dưỡng một ý thức tư cách thành viên trong Thân Thể Đức Kitô được phong phú hơn. Vì lý do này, ngoài việc khuyến khích từng tín hữu dành thời gian để cầu nguyện riêng trước Bí tích Bàn Thờ, tôi cảm thấy bắt buộc phải thúc đẩy các giáo xứ và các nhóm giáo hội khác lập những giờ chầu chung. Dĩ nhiên, đã có những hình thức tôn sùng Thánh Thể vẫn còn nguyên giá trị của chúng. Ví dụ, tôi đang nghĩ đến những cuộc kiệu Thánh Thể, cách riêng kiệu Thánh Thể theo truyền thống vào ngày lễ Mình Máu Đức Kitô, dâng hiến Bốn mươi giờ chầu, những đại hội Thánh Thể địa phương, quốc gia và quốc tế, và những sáng kiến tương tự khác. Nếu được cập nhật một cách phù hợp và được thích nghi với các hoàn cảnh địa phương, những hình thức sùng kính này ngày nay vẫn đáng được thực hành.[91]
Vị trí của nhà tạm
69. Khi cân nhắc tầm quan trọng của việc lưu giữ và chầu Thánh Thể, của việc tôn kính dành cho bí tích hy tế của Đức Kitô, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng thảo luận vấn đề vị trí thích hợp của nhà tạm trong các nhà thờ.[92] Đặt nhà tạm đúng chỗ giúp nhận biết sự hiện diện thật của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Do đó, vị trí nơi cất giữ bánh Thánh Thể phải được mọi người trông thấy ngay khi bước vào nhà thờ, một phần cũng nhờ ánh đèn chiếu sáng liên tục làm dấu hiệu. Vì vậy cần lưu ý đến kiến trúc tòa nhà : trong các nhà thờ không có nhà nguyện cất giữ Thánh Thể, và những nơi đã sắp đặt nhà tạm trên bàn thờ giữa, có thể tiếp tục sử dụng cấu trúc này để cất giữ và tôn thờ Thánh Thể, như vậy tránh đặt ghế chủ toạ phía trước nhà tạm. Trong các nhà thờ mới, sẽ là điều tốt nếu sắp đặt nhà nguyện Thánh Thể gần cung thánh ; nơi nào không thể làm như thế, thì ưu tiên đặt nhà tạm trong gian cung thánh, trên một nơi khá cao, ở trung tâm của phần cuối cung thánh, hay tại một nơi khác cũng có thể trông thấy dễ dàng như vậy. Lưu ý đến những cân nhắc này sẽ nâng cao phẩm giá của nhà tạm, nơi luôn luôn phải được chăm sóc cẩn thận, ngay cả dưới quan điểm nghệ thuật. Hiển nhiên cần phải theo những điều khoản trong Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma về vấn đề này.[93] Trong mọi trường hợp, phán quyết cuối cùng về vấn đề thuộc thẩm quyền Giám mục.

 

[1] Relatio post disceptationem, số 4 : L’Osservatore Romano, 14-10-2005, tr. 5.
[2] x. Sermo 1, 7 ; 11, 10 ; 22, 7 ; 29, 76 : Sermones dominicales ad fidem codicum nunc denuo editi, Grottaferrata 1977, tr. 135, 209tt, 292tt, 337 ; Bênêđíctô XVI, Sứ điệp gửi cho các Phong Trào Giáo Hội và các Cộng Đoàn Mới (22-5- 2006) : AAS 98 (2006), tr. 463
[3] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Hội Thánh trong thế giới ngày nay Gaudium et spes, số 22.
[4] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, số 2. 4.
[5] Propositio 33.
[6] Sermo 227, 1 : PL 38, 1099.
[7] T. Augustinô, In Iohannis Evangelium Tractatus 21, 8 : PL 35, 1568.
[8] Ibidem, 28,1 : PL 35, 1622.
[9] x. Propositio 30. Ngay cả Thánh Lễ mà Hội Thánh cử hành trong tuần, và các tín hữu được mời gọi tham dự, cũng có hình thức chính yếu của Ngày của Chúa, ngày phục sinh của Đức Kitô ; Propositio 43.
[10] x. Propositio 2.
[11] x. Propositio 25.
[12] x. Propositio 19. Propositio 25 ghi rõ : “Một hành động phụng vụ đích thực diễn tả tính thánh thiêng của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Hành động này phải tỏ lộ trong lời nói và hành động của linh mục chủ tế, trong khi ngài chuyển cầu cùng Thiên Chúa Cha vừa với các tín hữu vừa cho các tín hữu”.
[13] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 22 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 41 ; Thánh bộ Phượng tự và Kỷ luật các Bí tích, Huấn thị Redemptionis Sacramentum (25-3-2004), số 19-25 : AAS 96 (2004), tr. 555-557.
[14] x. Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục trong Hội Thánh Christus Dominus, số 14 ; Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 41.
[15] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 22.
[16] x. ibidem.
[17] x. Propositio 25.
[18] x. Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 112-130. (123(124)
[19] x. Propositio 27.
[20] x. ibidem.
[21] Về tất cả những gì liên quan đến các khía cạnh này, cần tuân thủ trung thành những gì đã được chỉ định trong Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 319-351.
[22] x. Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 39-41 ; Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 112-118.
[23] Sermo 34,1 : PL 38, 210.
[24] x. Propositio 25 : “Như tất cả các diễn tả nghệ thuật, ngay cả ca hát phải được hài hòa cách mật thiết với phụng vụ, góp phần một cách có hiệu quả vào mục đích của phụng vụ, nghĩa là phải diễn tả đức tin, sự cầu nguyện, sự cảm mến, tình yêu đối với Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể”.
[25] x. Propositio 29.
[26] x. Propositio 36.
[27] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 116 ; Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 41.
[28] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 28 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 56 ; Thánh bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum Mysterium (25-5-1967), số 3 : AAS 57 (1967), tr. 540-543.
[29] x. Propositio 18.
[30] Ibidem.
[31] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 29.
[32] x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (14-9-998), 13 : AAS 91 (1999), tr. 15-16.
[33] T. Giêrônimô, Comm. in Is., Prol. : PL 24, 17 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, số 25.
[34] x. Propositio 31.
[35] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 9 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, số 7. 33. 52.
[36] Propositio 19.
[37] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 52.
[38] x. Công đồng Vaticanô, Hiến chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, số 21.
[39] Vì mục đích như thế, Thượng Hội Đồng đã kêu gọi soạn thảo những trợ giúp mục vụ, dựa trên Sách Bài Đọc phân chia theo ba năm, giúp nối kết một cách nội tại sự công bố các bài đọc đã được soạn trước với giáo lý đức tin : x. Propositio 19.
[40] x. Propositio 20.
[41] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 78.
[42] x. ibidem, số 78-79.
[43] x. Propositio 22.
[44] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 79d.
[45] Ibidem, 79c.
[46] Xét đến các thói quen cổ xưa và đáng kính cùng với những ước muốn của các Nghị Phụ thượng hội đồng, tôi đã đề nghị các Bộ có thẩm quyền nghiên cứu khả năng đặt việc chúc bình an vào lúc khác, ví dụ trước khi dâng lễ vật lên bàn thờ. Hơn nữa việc lựa chọn như thế làm nhớ lại một cách ý nghĩa lời khuyên răn của Chúa Giêsu về sự hòa giải cần có trước khi dâng lễ vật cho Thiên Chúa (x. Mt 5,23tt) : x. Propositio 23.
[47] x. Thánh bộ Phượng tự và Kỷ luật các Bí tích, Huấn thị Redemptionis Sacramentum (25-3-2004), số 80-96 : AAS 96 (2004), tr. 574-577.
[48] x. Propositio 34.
[49] x. Propositio 35.
[50] x. Propositio 24.
[51] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 14-20 ; 30tt ; 48tt ; Thánh bộ Phượng tự và Kỷ luật các Bí tích, Huấn thị Redemptionis Sacramentum (25-3-2004), số 36-42 : AAS 96 (2004), tr. 561-564.
[52] Số 48.
[53] Ibidem.
[54] x. Thánh bộ Giáo sĩ và các Thánh bộ khác của Giáo triều, Huấn thị về vài vấn đề cộng tác của giáo dân trong tác vụ của các linh mục Ecclesiae de mysterio (15-8-1997) : AAS 89 (1997), tr. 852-877.
[55] x. Propositio 33.
[56] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 92.
[57] x. ibidem, số 94.
[58] x. Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân Apostolicam actuositatem, số 24 ; Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 95-111 ; Thánh bộ Phượng tự và Kỷ luật các Bí tích, Huấn thị Redemptionis Sacramentum (25-3-2004), số 43-47 : AAS 96 (2004), tr. 564-566 ; Propositio 33 : “Những thừa tác vụ này phải được cắt đặt theo một sự uỷ thác đặc biệt và theo những nhu cầu thực tế của cộng đoàn cử hành. Những người được uỷ thác những công việc phục vụ lâu dài có tính phụng vụ phải được chọn lựa cách kỹ lưỡng, được đào tạo chu đáo và được huấn luyện thường xuyên. Sự bổ nhiệm phải có thời hạn. Những người này phải được cộng đoàn biết đến và cũng phải nhận được lòng biết ơn từ phía cộng đoàn”.
[59] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 37-42.
[60] x. Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 386-399.
[61] AAS 87 (1995), 288-314.
[62] Tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in Africa (14-9-1995), số 55-71 : AAS 88 (1996), tr. 34-47 ; Tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in America (22-1-1999), số 16.40.64.70-72 : AAS 91 (1999), tr. 752-753 ; 775-776 ; 799 ; 805-809 ; Tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999), số 21-22 : AAS 92 (2000), tr. 482-487 ; Tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001), số 16 : AAS 94 (2002), tr. 382-384 ; Tông huấn hậu thượng hội đồng Ecclesia in Europa (28-6-2003), số 58-60 : AAS 95 (2003), tr. 685-686.
[63] x. Propositio 26.
[64] x. Propositio 35 ; Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 11.
[65] x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1388 ; Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55.
[66] x. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), số 34 : AAS 95 (2003), tr. 456.
[67] Ví dụ, T. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III, q. 80, a.1,2 ; T. Têrêsa Chúa Giêsu, Đường hoàn thiện, chương 35. Giáo thuyết này được chính thức xác nhận bởi Công đồng Trentô, phiên họp XIII, c. VIII.
[68] x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut unum sint (25-5-1995), số 8 : AAS 87 (1995), tr. 925-926.
[69] x. Propositio 41 ; Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về hiệp nhất Unitatis redintegratio, số 8, 15 ; Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut unum sint (25-5-1995), số 46 : AAS 87 (1995), tr. 948 ; Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), số 45-46 : AAS 95 (2003), tr. 463-464 ; Bộ Giáo Luật, đ. 844 §§ 3-4 ; Bộ Giáo Luật cho các Giáo Hội Đông Phương, đ. 671 §§ 3-4 ; Hội đồng Giáo hoàng về Hiệp nhất các kitô hữu, Chỉ nam để áp dụng các nguyên tắc và tiêu chuẩn về đại kết (25-3-1993), số 125, 129-131 : AAS 85 (1993), tr. 1087, 1088-1089.
[70] X. số 1398-1401.
[71] X. số 293.
[72] x. Uỷ ban Giáo hoàng về truyền thông xã hội, Huấn thị mục vụ về truyền thông xã hội nhân sinh nhật lần thứ 20 của “Communio et progressio”, Aetatis novae (22-02-1992) : AAS 84 (1992), tr. 447-468.
[73] x. Propositio 29.
[74] x. Propositio 44.
[75] x. Propositio 48.
[76] Sự hiểu biết này cũng có thể được tích lũy trong những năm đào tạo các ứng sinh lên chức linh mục, trong chủng viện, bằng những sáng kiến thích hợp : x. Propositio 45.
[77] x. Propositio 37.
[78] x. Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, các số 36 và 54.
[79] Propositio 36.
[80] x. ibidem.
[81] x. Propositio 32.
[82] x. Propositio 14.
[83] Propositio 19.
[84] x. Propositio 14. (189)
[85] x. Bênêđíctô XVI, Bài giảng giờ Kinh Chiều I ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (3-6-2006) : AAS 98 (2006), tr. 509.
[86] x. Propositio 34.
[87] Enarrationes in Psalmos 98,9 CCL XXXIX, 1385 ; x. Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho giáo triều Rôma (22-12-2005) : AAS 98 (2006), tr. 44-45.
[88] x. Propositio 6.
[89] Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho giáo triều Rôma (22-12-2005) : AAS 98 (2006), tr. 45.
[90] x. Propositio 6 ; Thánh bộ Phượng tự và Kỷ luật các Bí tích, Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ. Nguyên tắc và hướng dẫn (17-12-2001), số 164-165, Vatican, 2002 ; Thánh bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum Mysterium (25-5-1967) : AAS 57 (1967), tr. 539-573.
[91] x. Relatio post disceptationem, số 11 : L’Osservatore Romano, 14-10-2005, tr. 5.
[92] x. Propositio 28.
[93] x. số 314.

Trở lại Mục lục